MỘT SỐ BÀI VIẾT VỀ CÁC TƯ LIỆU ĐỌC HIỂU ÔN TẬP NGỮ VĂN HỌC KÌ II NĂM HỌC 2015-2016
Thứ Ba, 3 tháng 5, 2016
MỘT SỐ BÀI VIẾT VỀ CÁC TƯ LIỆU ĐỌC HIỂU
--------------------
ĐÔI ĐIỀU VỀ BÀI HÁT VÀ BÀI THƠ KHÚC HÁT SÔNG QUÊ
Lê Huy Mậu
Như
nhiều người đã biết, khúc hát sông quê là một chương trong
trường cathời gian khắc khoải tôi viết vào năm 2002. Khi viết xong
trường ca này, tôi cũng tâm đắc lắm, có đưa cho một số người xem, có người bảo
được, người bảo chưa được. Xong tôi vất bản thảo vào đâu đó không đoái hoài gì
đến nó nữa. Cuối tháng 8 năm 2002, nhà thơ , nhạc sĩ Nguyễn Trọng Tạo vào Vũng
tàu dự trại sáng tác của Hội âm nhạc Việt nam, tôi có gửi cho anh 5 bài thơ (
trong đó có bài khúc hát sông quê) để anh chọn in vào báo thơ của
Hội nhà văn. Bấy giờ là một buổi chiều xâm xẩm tối, tôi và anh có đi uống rượu
do một người quen cuả Nguyên Trọng Tạo mời. Anh ở phòng số 306 thì phải.? Do
anh cũng đã uống lừng xừng rồi nên tôi đặt tập bản thảo trên bàn viết rồi về.
Sáng hôm sau, vào khoảng 8 giờ, Nguyễn Trọng Tạo gọi điện hỏi tôi ăn sáng chưa,
ra đây ăn sáng. Gặp tôi, anh nói ngay, phổ được bài thơ của Mậu rồi, để mình
hát thử cho Mậu nghe nhé! Tôi thấy anh cầm một tờ giấy mới ký âm nguệch ngoac,
anh lấy giọng hai ba lần mới hát. Thú thật là, ngay câu đầu tiên của bài hát
: Quá nửa đời phiêu dạt/ con lại về úp mặt vào sông quê đã
khiến tôi thấy bồi hồi, xúc động rồi. Rồi những câu tiếp theo, rồi cả bài hát
được Nguyên Trọng Tạo hát trọn vẹn, không ngắc ngứ chỗ nào cả. Đến điệp khúc
của bài hát thì chính Nguyễn Trọng Tạo cũng đã tự nhập đồng vào bài hát rồi.
Sau này, anh bảo tôi nghe xong thì đực mặt ra, và bảo, anh làm tôi nổi tiếng
đến nơi rồi! Đó là anh nói thế, chứ thực ra, không phải chỉ có tôi, mà Nguyễn
Trọng Tạo cũng thật sự bị lời ca, bị giai điệu của bài ca của chính mình
làm cho ngây ngất trong phút giây sau đó. Ngày ấy, tôi đang bị rối loạn tiền
đình nặng, nghe xong bài hát tôi nằm vật ra giường, không phải chỉ do xúc động
về bài hát mà cả do tiền đình chóng mặt lúc nào cũng muốn nằm. Hình như lúc ấy
tôi có bình luận gì đó, nhưng có nói câu như anh Tạo nói không thì không còn
nhớ! Tôi và Nguyễn trọng Tạo có trao đổi qua về một số tình tiết của bài
hát, ví như: Nguyễn Trọng Tạo có bảo tôi, câu thơ của Mậu là qua nửa
đời phiêu dạt nhưng vào bài hát thành ra quá nửa đời,
nhưng anh bảo, như thế có khi lại hóa hay, và anh nhắc đi nhắc lại câu mở đầu
khi qua, khi quá mấy lần. Còn một câu anh bảo
tiếc lắm mà không làm sao đưa vào được, đấy là câu cá dưới sông cũng có
tết như người. Một vài chỗ nữa anh cũng cân nhắc từ ngữ rất kỹ
như câutừng vị heo may trên má em hồng, câu thơ là ta nếm
vị heo may trên má em hồng, anh khen chữ nếm hay, nhưng
vào bài hát phải thế thôi!
Trước
khi bài hát được đài truyền hình Việt nam tổ chức giới thiệu trong chương trình
tác phẩm mới do ca sĩ Anh Thơ trình bày, hôm bế mạc trại, ca sĩ Thanh Phong của
đoàn ca múa Bà rịa- Vũng tàu cũng đã hát bài khúc hát sông quê, và
ngay lúc đó anh và cả tôi nữa đã nhận đươc nhiều cảm tình của người nghe về bài
hát đó.
Mỗi
tác phẩm đều có đời sống riêng của nó. Sau này, khi bài hát đã dành được sự mến
mộ của những người yêu âm nhạc rồi, có nhiều bạn đọc đã tìm đọc nguyên tác bài
thơ khúc hát sông quê của tôi. Ai cũng biết rằng, âm nhạc đã
chắp cánh cho bài thơ đến được với đông đảo người xem. Một cách công bằng,
không phải khiêm tốn, khúc hát sông quê là một tuyệt phẩm âm
nhạc của Nguyễn Trọng Tạo, phần thơ, nhiều lắm là. bài thơ của tôi, trước
hết là nó tạo ra được một xúc động ban đầu cho Nguyễn Trọng Tạo, nhắc nhớ ( tôi
nhắc lại, nhắc nhớ chứ không phải là nhắc nhở) hồn quê trong anh, và vì vậy,
bài hát mới thực sự gây được sự cộng hưởng sâu rộng trong lòng độc giả nhiều
vùng miền trong cả nước.
Tính đến nay, bài khúc hát sông quê đã được 13 tuổi. Cùng với ca khúc khúc
hát sông quê, bài thơ của tôi cũng được xuất bản nhiều lần, được đưa
lên một số trang web trong và ngoài nước. Nhân ngày thơ Việt nam lần thứ tám
(2010), tác giả bài thơ được hân hạnh đọc nguyên bài thơ trên diễn đàn thơ Văn
miếu Quốc Tử Giám! Tôi và nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo đươc đón tiếp hết sức
trọng thị tại Diễn Châu quê anh và Thanh Chương quê tôi. Nhiều tấm lòng của bạn
đọc, bạn nghe đài dành cho Nguyễn Trọng Tạo và tôi xúc động không sao kể xiết.
Bạn bè, người thân của tôi ở quê, bạn bè lính Trường Sơn xưa, bạn bè văn nghệ,
cũng đã dành cho Nguyễn Trọng Tạo và tôi sự quý mến, thân tình hiếm có. Tuy
không phải lúc nào cũng ngây ngất trong “ vinh quang” mà nhiều khi cũng thật mệt
mỏi về nó.
Những lúc thanh vắng, trầm tĩnh nhất, tôi thường đọc lại bài thơ khúc
hát sông quê của mình, không phải để tự sướng , mà để tự biết, tự đặt
câu hỏi và có cả để củng cố sự tự tin vào bài thơ của mình , nhưng, thành
thật mà nói, cái mình làm được trong bài thơ, theo tôi, là không phải mình làm
thơ, mà chính là để thơ nó làm mình, nó quy định ngôn ngữ biểu đạt, nó dẫn dắt
mình theo trật tự, theo triết lý của nó.
Cảm
ơn nhà thơ- nhạc sĩ Nguyễn Trọng Tạo đã cho tôi có được vinh dự từ bài hát này!
NHÀ THƠ NGUYỄN ĐÌNH THI VÀ BÀI THƠ 'LÁ ĐỎ'
|
Lựa lúc công việc
của ông vừa dứt, tôi xin đăng ký được gặp ông vài chục phút về bài thơ Lá đỏ.
Ông lưỡng lự một lúc rồi như thông cảm với vẻ mặt cầu khẩn của tôi, rồi nói
nhẹ nhàng, ôn gtồn và dứt khoát: sáng thứ hai vậy nhé. Đầu giờ, nhớ đinh ninh
lời hẹn, sáng thứ hai tôi đứng sẵn ở cầu thang máy vào lúc 8 giờ kém 5 phút.
Chờ cho ông vào trong phòng nghỉ ngơi một chút rồi tôi nhẹ nhàng gõ cửa.
Lá đỏ
Gặp em trên cao lộng gió
Rừng lạ ào ào lá đỏ
Em đứng bên đường
như quê hương
Vai áo bạc quàng súng trường
Đoàn quân vẫn đi vội vã
Bụi Trường Sơn nhòa trời lửa
Chào em, em gái tiền phương
Hẹn gặp nhé giữa Sài Gòn.
1974.
Ông nhìn tôi như chưa nhớ ra việc gì. Tôi vội nhắc:
- Dạ, sáng nay theo
lời hẹn ông dành cho ít phút cho bài thơ Lá đỏ. Ông nhớ ra và nói: Việc này
thì Phạm Tiến Duật cũng biết rõ. Nói vậy nhưng ông vẫn chỉ chiếc ghế cho tôi
ngồi và tôi hiểu phải thật nhanh chóng thực hiện “chương trình” kẻo có khách
vào lại phải hoãn không biết đến bao giờ. Vậy là tôi bắt ngay vào việc.
Phóng viên: Thưa ông! Lá đỏ là bài thơ được nhiều người ưa thích, xin ông vui
lòng cho bạn đọc biết hoàn cảnh ra đời và cảm xúc lớn nhất của ông khi viết
bài thơ? Vì sao bài thơ không thể mang một cái tên khác?
Nhà thơ Nguyễn Đình Thi: mùa thu năm 1974 tôi cùng các anh Tế Hanh, Đinh Đăng
Định, Phạm Tiến Duật đi trên một chiếc xe vào Trường Sơn. Đang đi trên đường
bỗng thấy một anh bộ đội cứ giơ hai tay ra hiệu cho xe dừng lại và chỉ lên
trời. Chúng tôi vội xuống xe và nhảy ra ngoài, lăn xuống một hẻm núi, Một
tiếng nổ vang trời, chiếc xe tan tành. Thật không ngờ tất cả chúng tôi đều
sống sót. Sau đó chúng tôi lại tiếp tục đi bộ. Trên đường thấy nhiều bộ đội
kéo pháo, xe tải người đi nườm nượp vội vã hối hả. Tôi hiểu sắp có một trận
đánh lớn. Vậy mà tôi thấy có rất nhiều phụ nữ, nhiều những em gái trẻ trung
mảnh mai đứng ở những nơi nguy hiểm, dẫn đường cho xe qua suối, hoặc qua
những quãng đường khó.
Ở nơi bom đạn chiến
trường ác liệt ấy tôi không thể nghĩ lại có nhiều phụ nữ tham gia như vậy.
Tôi nhớ hồi chống Pháp cũng thế, dân công trở gạo, trở vũ khí, đạn dược rồi y
tá, đa phần là phụ nữ. Họ ra tận chiến hào cúng bộ đội đánh giặc. Có lẽ tôi
chưa thấy ở đâu trong cuộc chiến tranh ái quốc, người phụ nữ lại tham gia
đông đảo, hồn nhiên, dũng cảm và lạc quan như ở Việt Nam. Đó là cảm xúc lớn
nhất tạo nên thi hứng sáng tạo của bài thơ, tôi đã viết:
Đoàn quân vẫn đi vội vã
Bụi Trường Sơn nhòa trời lửa
…
Em đứng bên đường như quê hương
Vai áo bạc quàng súng trường.
Vượt qua nhiều chặng
đường nguy hiểm, chúng tôi đến những cánh rừng giáp Lào, tôi thấy rừng mùa
thu ở đây toàn lá đỏ. Rất lạ và rất đẹp. Tôi nhặt một chiếc lá ép vào cuốn sổ
và tối đó tôi viết bài thơ Lá đỏ. Bài thơ được đọc lần đầu ở Cục Chính trị
Tây Nguyên.
Phóng viên: Vậy là
bài thơ đã có mặt kịp thời ở chiến trường trong giai đoạn ác liệt nhất, để
sau đó ta có chiến thắng lịch sử của chiến dịch Hồ Chí Minh vĩ đại. Như một
nhu cầu tất yếu về đời ssóng tinh thần của những người lính, bài thơ được phổ
nhạc và hát rất nhiều, rất rộng rãi, kỷ niệm của ông về bài ca đó?
Nhà thơ Nguyễn Đình Thi: Tôi không nhớ bài thơ đó được phổ nhạc khi nào. Chỉ
biết nhạc sĩ Hoàng Hiệp phổ nhạc. Sau sáu tháng đi bộ vào các tỉnh Mỹ Tho,
Tiền Giang, Long An… tôi sáng tác được một số bài thơ và trở ra bắc. Sau
chiến thắng năm 1975, tôi thắy người ta hát rất nhiềubài Lá đỏ và bài Trường
Sơn đông Trường Sơn tây của Phạm Tiến Duật.
Phóng viên: Thưa ông
chặng đường cách mạng mà ông đi qua đến giờlà gần 60bnăm và chặng đường sáng
tác của ông cũng đã qua hơn 50 năm. Điều tâm đắc nhất ông có thể tâm sự với
thế hệ trẻ, đặc biệt là với những người cầm bút?
Nhà thơ Nguyễn Đình Thi: Tôi tham gia hoạt động cách mạng năm 1941, năm 1946
tôi về công tác tại Hội văn hóa Cứu quốc cùng với Văn Cao và Nguyễn Tuân. Sau
đó tôi vào hẳn trong quân đội thuộc trung đoàn thủ đô 102. Qua những năm
chiến tranh ở chiến trường của cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, tôi
chứng kiến sự hy sinh vô cùng lớn lao của dân tộc ta. tôi nghĩ tất cả những
gian khổ màg tôi đã trải qua và cả những khó khăn trong cuộc sống hôm nay
cũng không đáng kể gì bởi tôi vẫn đang được sống, còn bao nhiêu ngừi mẹ,
người chị, người em, bao nhiêu đồng đội, đồng chí của tôi đã vĩnh viễn không
trở về. Lại còn bao nhiêu ngừi phải chịu hậu quả của cuộc chiến tranh như
chất độc màud da cam đã hủy hoại cuộc ssóng của các con, cháu họ. Còn biết
bao những ngừi phụ nữ chịu đựng nhiều mất mát, hy sinh, những cô gái thanh
niên xung phong chịu tàn tật cả đời mình, không hạnh phúc riêng… Sự hy sinh
của dân tộc ta lớn lắm, ý thức dân tộc của người Việt Nam ta lớn lắm. Đó là
món nợ mà những người cầm bút phải trả. (Điều đó giải thích vì sao hầu hết
các tác phẩm của tôi viết đều về đề tài chiến tranh).
Ở thời kỳ kinh tế
thị trường hiện nay, trong đời thường, chỗ này, chỗ khác, có thể ý thức dân
tộc bị xao nhãng xong tôi vẫn luôn tin rằng: dân tộc ta gặp phải một
thử thách nào (đơn giản là tai họa lũ lụt vừa qua) thì ý thức dân tộc
trong mỗi ngươi Việt Nam lại bùng lên, kết lại thành sức mạnh cảu truyền
thống nhân văn. Họ đặt quyền lợi tập thể lên trên lợi ích cá nhân mình. …..
viết vở Rừng Trúc vừa rồi không ngoài ý tưởng đó. Từ sâu thẳm của nhận thức,
người Việt Nam ta hiểu rằng lợi ích cá nhân không khi nào toàn vẹn khi lợi
ích của dân tộc bị xâm hại.
Tôi nghĩ người cầm bút có thể viết và cống hiến cho xã hội tùy theo khả năng
của mình, nhưng cần phải sống sao cho xứng đáng với sự hy sinh của bao người
để có được ngày hôm nay, và sống xứng đáng với ý thức dân tộc, với truyền
thống văn hóa ngàn đời của người Việt Nam.
Phóng viên: Xin cảm ơn ông. Chúc ông nhiều sức khỏe.
Nguồn:
Văn nghệ Quân đội
|
-----------------
ĐÔI CHI TIẾT VỀ BÀI
THƠ TRƯỜNG SƠN ĐÔNG - TRƯỜNG SƠN TÂY
. Nhà
thơ PHẠM TIẾN DUẬT
VNQĐ online: Bài viết này được cố nhà thơ Phạm Tiến Duật viết
khi ông còn sống, với những kỉ niệm nhỏ xung quanh bài thơ nổi tiếng
"Trường Sơn Đông - Trường Sơn Tây". VNQĐ online xin
trân trọng giới thiệu lại cùng bạn đọc:
Bài thơ Trường Sơn Đông –
Trường Sơn Tây tôi sáng tác hồi cuối năm 1969 tại một làng nhỏ bên bờ
sông Son của tỉnh Quảng Bình, làng Cổ Giang, một làng nghèo khó mà nền nếp. Cái
làng ấy ở không xa nơi cổng đường 20 xe ngang dãy núi Trường Sơn. Thấm thoát đã
gần ba mươi năm rồi. Tuổi đất, tuổi người dài ra cũng ối chuyện mà tuổi tác
phẩm – của bất kỳ ai – dài ra cũng không ít chuyện. Từ nhiều năm nay, trong các
băng nhạc Karaoke có chạy bài hát cùng tên phổ thơ tôi do nhạc
sĩ Hoàng Hiệp làm nhạc. Câu thơCái gạt nước xua đi nỗi nhớ của
bài thơ ấy được băng hình đánh chữ làCái gạt nước xua tan nỗi
nhớ. “Xua tan” như thế thì còn gì là tình yêu. Băng hình không chỉ “xua
tan” nỗi nhớ mà còn “xua tan” cả thơ ca nữa. Lỗi ấy của người làm băng chứ
không phải của nhạc sĩ. Cũng phải nói thêm rằng những người làm băng ấy vi phạm
bản quyền, phớt lờ tác giả. Câu chuyện ấy chỉ làm tôi buồn cười chứ lạ sao
không thấy bực mình. Thì văn hóa tới đâu thì làm tới đó, chứ biết làm sao. Mà
họ có làm văn hóa đâu, họ làm kinh tế đấy chứ. Một thời ngỡ tưởng gần mà đã hóa
ra xa.
Ở bài hát, Trường Sơn Đông –
Trường Sơn Tây là một bản tình ca trong chiến tranh. Một anh, một chị
yêu nhau trong xa cách. Còn ở tác phẩm thơ, yếu tố tình ca trộn
lẫn với quân ca. Có tám dòng thơ nhạc sĩ không phổ. Ở khổ thứ hai
từ trên xuống. Một dãy núi mà hai màu mây/Bên nắng bên mưa khí trời
cũng khác/Như anh với em như Nam với Bắc/ Như đông với tây một dải rừng liền.
Và ở khổ thứ hai từ dưới lên: Đông sang tây không phải đường thư/Đường
chuyển đạn và đường chuyển gạo/ Đông Trường Sơn cô gái ba sẵn sàng xanh áo/ Tây
Trường Sơn bộ đội áo màu xanh. Như vậy, trong thơ không chỉ có hai
người mà còn có hai lực lượng. Ba chữ như ở đoạn trên nói rằng đây
chỉ là ví dụ mà thôi. Âm nhạc viết theo thể hát nói trữ tình đã cộng hưởng rất
đẹp với thơ.
Cả bài thơ, như đã nói, làm xong
cuối năm 1969, nhưng hai dòng đầu tiên thì có trước đó gần hai năm. Bây giờ,
nhận vật tạo hứng cho thơ đang sống ở Hà Nội, một họa sĩ đã thành danh. Hồi ấy,
anh ta yêu một cô y tá ở phía đông Trường Sơn. Ngồi chung một ca-bin xe đi sang
phía tây, suốt đường anh ta nhắc đến người yêu. Nỗi nhớ của anh ra lây lan sang
cả tôi, sang cả người lái xe. Mãi đến khi trời mưa, cái gạt nước phía trước mặt
đã giúp tôi viết hai dòng đầu tiên: Anh lên xe trời đổ con mưa/Cái gạt
nước xua đi nỗi nhớ.
Bài thơ được viết sau nhiều chặng
đường vượt rừng gian nan. Cho đến nỗi, nếu chưa từng ở rừng, vượt rừng thì khó
bề thông cảm hết với thơ ấy, bài ấy. Chẳng hạn như câu này: Nước khe
cạn, bướm bay lèn đá không phải là một câu thơ tả đẹp mà là một quan
sát đáng run sợ của lính trinh sát. Nếu thấy cảnh ấy vào lúc chập chiều thì cầm
chắc là đói vì không thể có nước nấu cơm. Mười cây số vuông quanh đí không thể
có nguồn nước. Hay là câu này: Muỗi bay rừng già cho dài tay áo,
một bạn Việt kiều và một nhà thơ Pháp đã dịch là Muỗi bay, mọi người
mặc áo măng tô vào thì thật buồn cười. Họ không đi lính thì trách sao
được.
Bây giờ, đọc lại nghe lại, như một
người ngoài cuộc vô cảm tôi vẫn thấy trong lòng bồi hồi. Từ nhiều năm nay thật
nhiều bài thơ người ta gọi là thơ tình, nhiều ca khúc người ta gọi là tình ca.
Nhưng sao nghe chỉ thấy tán tỉnh, có lúc tán tỉnh đến thô lỗ. Thấy quá nhiều sự
ích kỷ nhuộm vào các câu chữ. Nhớ lại thời ấy, không phải để tự khen mìn và
đồng đội của mình mà rưng rưng cảm động. Hình như, không yêu được số đông người
thì cũng khó mà yêu lấy một người. Sự ích kỷ với thiên hạ có chứa lực phản.
Không, không chỉ một tôi viết Trường
Sơn Đông – Trường Sơn Tây mà cả con muỗi, con bướm, cái gạt nước, ngọn
măng rừng và đồng đội của chúng ta cùng viết.
----------------
Thứ bảy, 15/3/2014 | 11:59
GMT+7
‘Hương thầm’ - ký ức về mùa hoa bưởi năm ấy
Bài hát được phổ nhạc từ thơ của
Phan Thị Thanh Nhàn đã trải qua 30 năm tồn tại nhưng vẫn tỏa hương bền bỉ như
một trái tim mang khát vọng hòa bình và yêu thương.
Có những loài hoa trở nên bất tử vì
một bài thơ hay một bài ca. Đó là “hoa sữa” của nhạc sĩ Hồng Đăng, “màu tím hoa
sim” trong thơ của Hữu Loan, “hoa sứ nhà nàng” trong nhạc của Hồng Phương… Tất
nhiên khi điểm danh sách ấy, không thể quên “hoa bưởi” trong Hương thầm của
nhạc sĩ Vũ Hoàng, phổ thơ Phan Thị Thanh Nhàn.
Bưởi là một thứ cây phổ biến ở nhà
quê. Cây dễ trồng, dễ chăm sóc, quả lại rất lành. Đến tháng ba, khi “mưa xuân
phơi phới bay”, cũng là lúc bưởi ra hoa. Đầu làng, cuối xóm, bỗng đâu ngào ngạt
hương thơm. Đó là thứ hoa âm thầm đến lạ, chưa thấy hình đã thấy hương, còn
chưa kịp thấy bóng hoa, người đã ngây ngất vì mùi thơm thanh khiết.
Người xưa chơi hoa thường chuộng
hương hơn chuộng sắc. Bởi thế những thứ hoa rực rỡ như mẫu đơn, hải đường, phù
dung, thược dược… vẫn thường bị các cụ chê là “hữu sắc vô hương”, giống như
người đàn bà đẹp mà không có duyên. Hoa bưởi thì ngược lại, “hữu hương vô sắc”:
hương thơm thì vô cùng nhưng dáng hình lại mộc mạc.
Hoa có năm cánh đầy đặn, trắng muốt;
uốn cong cong về phía cuống, khoe nhụy vàng thơm phức. Hoa bưởi một khi đã nở,
ít khi nở vài bông hay vài chùm, mà thường nở một loạt, nở cả cây. Khắp những
vòm lá xanh tươi là những chùm bông trắng tinh ẩn hiện. Hoa bưởi giản dị lắm
nhưng lại quyến rũ như người thôn nữ có duyên ngầm.
Trước Phan Thị Thanh Nhàn, hoa bưởi
đã xuất hiện trong ca dao và nhiều nhất là trong thơ Nguyễn Bính. Nhiều người
vẫn thuộc câu ca “Trèo lên cây bưởi hái hoa” hay những dòng tươi thắm tả cảnh
mùa xuân “Đầy vườn hoa bưởi hoa cam rụng – Ngào ngạt hương bay, bướm vẽ vòng”
(Nguyễn Bính). Nhưng phải đến Phan Thị Thanh Nhàn, hoa bưởi mới trở thành nhân
vật chính trong một bài thơ.
Bài thơ ấy mang tên Hương
thầm, tác giả sáng tác để tặng người em ruột tên là Phan Hữu Khải. Hồi ấy
nhà bà ở Yên Phụ, trong sân có cây bưởi, cứ độ tháng ba về là hương thơm ngào
ngạt. Em trai bà thường nhặt hoa rụng và hái hoa tươi cho vào túi để chị xách
đi làm.
Ở lớp, có một bạn gái có vẻ rất gắn
bó gần gũi với Khải nhưng anh không hay biết, chỉ có người chị đa cảm là để ý.
Rồi anh lên đường đi bộ đội, ở chiến trường có lần được nghe Đài tiếng nói Việt
Nam ngâm bài thơ, anh viết thư về kể cho chị. Phan Thị Thanh Nhàn chưa kịp hồi
âm bà sáng tác bài thơ ấy từ chuyện của anh thì anh đã hy sinh. Anh ngã xuống
mà không hề biết rằng mình đã được chị gái tặng riêng cho một bài thơ.
Nhà thơ Phan Thị Thanh Nhàn từng
chia sẻ trên báo: “Hương thầm cứ lặng lẽ, đến người đưa tiễn cũng
không hay biết, ngay cả khi nằm xuống đất lạnh rồi vẫn không hay biết”.
Hương thầm sau đó được giải nhì cuộc thi thơ của tuần báo Văn
nghệ năm 1969. Đến năm 1984, bài thơ được nhạc sĩ Vũ Hoàng phổ nhạc, như được
chắp thêm đôi cánh để càng vươn xa hơn đến mọi miền của tổ quốc.
Hương thầm bắt đầu bằng hình ảnh những khung cửa để ngỏ. Hai người bạn
“thanh mai trúc mã” lớn lên bên nhau với cây bưởi là chứng nhân lặng lẽ:
“… Khung cửa sổ hai nhà cuối phố
Chẳng hiểu vì sao không khép bao giờ,
Đôi bạn ngày xưa học chung một lớp
Cây bưởi sau nhà ngan ngát hương đưa…”
Nhà phải có cây bưởi mới biết hoa
bưởi hữu dụng đến mức nào. Hoa bưởi được người ông đem ướp với trà để đãi khách
những mùa sau. Người bà tần tảo đem hoa bưởi ướp với mía lùi làm quà ngon cho
các cháu. Những ngày nóng nực, người mẹ đem hoa bưởi rắc lên bát chè đậu đen
ngọt lành. Người chị để hoa trong vuông khăn giắt trong túi áo hoặc cài lên mái
tóc để làm điệu.
Trẻ con dùng chỉ xâu qua những đóa
hoa để kết thành vòng tay, vòng cổ xinh xắn. Lại có khi hoa được giắt lên mái
đầu khi các em chơi trò cô dâu chú rể. Chàng trai và cô gái nhà bên có lẽ đã
lớn lên với những kỷ niệm dịu ngọt từ những mùa hoa bưởi đi qua như thế.
“… Giấu một chùm hoa trong chiếc
khăn tay
Cô bé ngập ngừng sang nhà hàng xóm
Bên ấy có người ngày mai ra trận
Bên ấy có người ngày mai đi xa…”
Những rung động đầu đời chưa kịp gửi
trao thì chàng trai đã phải ra trận, “xếp bút nghiên theo nghiệp binh đao”. Ở
một mùa hoa bưởi khác trong thơ của Tô Hùng một cuộc biệt ly như thế cũng đã
diễn ra:
“Mỗi mùa xuân thơm lừng hoa bưởi
Rắc trắng vườn nhà những cánh hoa vương
Em lại nhớ ngày xưa anh ra trận
Cũng giữa mùa hoa bưởi ngát hương”
“Của tin gọi một chút này làm ghi”,
cô bé hái một chùm hoa bưởi, giấu trong khăn tay định tặng người ra trận. Chỉ
một từ “ngập ngừng” thôi mà như diễn tả được bao nét ngại ngùng, bẽn lẽn của
người thiếu nữ dịu dàng.
“Nào ai đã một lần dám nói
Hương bưởi thơm cho lòng bối rối
Cô bé như chùm hoa lặng lẽ.
Nhờ hương thơm nói hộ tình yêu”.
Thời ấy, tình yêu trong sáng lắm.
“Tình trong như đã, mặt ngoài còn e”. Người thiếu nữ đoan trang e thẹn chẳng
dám mở lời. Chàng trai, đứng trước cuộc sinh ly tử biệt, dù trong lòng có tình
cảm cũng phải kìm nén, sợ nói ra nhỡ có bề gì, trở thành gánh nặng cho người ở
lại.
Trong thơ của Phan Thị Thanh Nhàn,
sự bối rối ấy được diễn tả rõ hơn: “Họ ngồi im không biết nói năng chi – Mặt
chợt tìm nhau rồi lại quay đi”; “Hoa bưởi thơm cho lòng bối rối – Anh không dám
xin – Cô gái chẳng dám trao”.
Tình yêu thời chiến là thế: kín đáo,
âm thầm nhưng không kém phần nồng nàn lãng mạn. Vì lý tưởng, họ sẵn sàng lên
đường, ấp trong tim một khối tình chẳng bao giờ dám ngỏ. Có những người lính
ngã xuống vẫn chưa từng một lần được yêu, chưa từng được nếm vị ngọt ngào của
bờ môi thiếu nữ:
“Em ơi rất có thể
Anh chết trong chiến tranh
Đôi mươi tươi đạn xé
Chưa bao giờ được hôn”
(Hôn – Phùng Quán)
Nếu mùi hương hoa bưởi đã nói hộ tấm
lòng người thiếu nữ, thì Hương thầm có thể coi là thay lời
muốn nói của cả một thế hệ đã trải qua tuổi thanh xuân đẹp nhất của mình nơi
chiến trường:
“… Hai người chia tay nhưng chẳng
nói điều chi
Mà hương thầm theo mãi bước người đi
Hai người chia tay sao chẳng nói điều gì?
Mà hương thầm vương vấn mãi người đi...”
Không một lời yêu nào được ngỏ,
không một lời hứa hẹn nào được trao. Chỉ có những câu hỏi không lời đáp để lại
bao xao xuyến trong lòng người nghe.
Tròn 30 năm Hương thầm được
phổ nhạc, có rất nhiều ca sĩ đã thử sức với bài hát này. Nhưng có lẽ Bảo Yến là
người thể hiện thành công hơn cả. Giọng hát của chị chân phương, mộc mạc, không
luyến láy điệu đà như nhiều ca sĩ sau này, cũng giống như hoa bưởi không phô
trương mà vẫn nồng nàn.
Người ta vẫn thương hoa bưởi vì để
lại mùi hương rất lâu. Hoa đã tàn rồi mà trên tay, trong nếp áo, mái đầu của
người hái hoa vẫn còn thoang thoảng mùi hương. Hương thầm cũng
vậy, 45 năm thành hình dưới dạng bài thơ, 30 dưới dạng nhạc, vẫn tỏa hương bền
bỉ như khát vọng tình yêu và hòa bình vẫn chẳng bao giờ thôi trăn trở trong tim
người Việt.
Anh Trâm
All comments [ 0 ]
Your comments