Hướng dẫn ôn tập học kỳ II môn Địa lý năm học 2016-2017
Thứ Sáu, 28 tháng 4, 2017
I. Lí thuyết
1.Thế mạnh khai thác,
chế biến khoáng sản và thủy điện ở Trung du miền núi Bắc Bộ.
a. Khai thác và chế biến khoáng sản
* Tiềm năng khoáng sản bậc nhất ở
nước ta.
+ Vùng Đông Bắc có nhiều than đá (Quảng Ninh,
Thái Nguyên, Lạng Sơn), nhiều mỏ kim loại: sắt (Yên Bái, Thái Nguyên, Hà Giang), mănggan
(Cao Bằng), thiếc (Cao Bằng, Tuyên Quang), chì-kẽm (Bắc Cạn), Bôxít (Lạng Sơn),
đồng-vàng(Lào Cai). Vùng Tây Bắc có mỏ đồng-niken (Sơn La), đất hiếm (Lai
Châu).
+ Khoáng sản phi
kim loại có mỏ apatít (Lào Cai), pyrít ở Thanh Sơn (Phú Thọ), đá vôi ở nhiều
tỉnh, nhất là Quảng Ninh….
* Hiện trạng khai thác tài nguyên khoáng sản
+
Mỏ than Quảng Ninh được khai thác với sản lượng ngày càng tăng từ 10 triệu tấn
(1998) lên trên 30 triệu tấn (năm 2005)
+
Trong vùng có nhà máy nhiệt điện Uông Bí với tổng công suất 450 MW, nhiệt điện
Cao Ngạn (Thái Nguyên) có công suất 116 MW, nhiệt điện Na Dương (Lạng Sơn) có
công suất 110 MW. Dự kiến xây dựng nhiệt điện Cẩm Phả (Quảng Ninh) có công suất
600 MW.
+
Các mỏ kim loại đã được khai thác : Thiếc ở Tĩnh Túc (Cao Bằng), Sơn Dương (Tuyên
Quang) với sản lượng 1000-1500 tấn
+ Khai thác apatít ở Lào Cai, mỗi năm 600
nghìn tấn. Khai thác pyrít ở Thanh Sơn (Phú Thọ). Khai thác đá vôi ở nhiều tỉnh
để sản xuất xi măng và vật liệu xây dựng khác….
- Tuy nhiên: một số mỏ khoáng sản có trữ lượng lớn chưa
được khai thác, do các mỏ này nằm ở địa hình phức tạp, giao thông đi lại khó
khăn, kĩ thuật khai thác và chế biến đòi hỏi trình độ cao mà vùng chưa đáp ứng
được.
b.
Khai
thác thủy điện
- Tiềm
năng thủy điện lớn: do có nhiều sông ngòi,
lắm thác ghềnh nên có trữ lượng thủy năng lớn. Riêng hệ thống sông Hồng có 11
nghìn MW, chiếm 37% dự trữ thủy năng của cả nước, trong đó sông Đà có dự trữ 6
nghìn MW. Ngoài ra các sông khác ở Đông Bắc đều có dự trữ thủy năng nhất định.
- Hiện trạng khai thác thủy điện: xây dựng nhà máy thủy
điện Thác Bà trên sông Chảy có công suất 110 MW, nhà máy thủy điện Hòa Bình
trên sông Đà có công suất 1920 MW, nhà máy thủy điện Tuyên Quang trên sông Gâm
có công suất 342 MW. Nhà máy thủy điện Sơn La trên sông Đà có công suất 2400 MW
- Ý nghĩa: Việc phát triển
thủy điện sẽ tạo ra động lực mới cho sự phát triển của vùng, nhất là việc khai
thác và chế biến khoáng sản trên cơ sở nguồn điện rẻ và dồi dào.
- Khó khăn: Nhưng, sông ngòi chảy
trong vùng đá vôi, chế độ nước theo mùa,
hàm lượng phù sa của sông lớn cần phải chú ý tính toán khi khai thác thủy điện.
Đồng thời phải chú ý đến những thay đổi không nhỏ của môi trường do các hồ thủy
điện gây ra.
2. Chuyển
dịch cơ cấu kinh tế theo ngành ở đồng bằng Sông Hồng
a. Nguyên nhân chuyển dịch
- Đồng bằng
sông Hồng có nhiều tiềm năng để phát triển nền kinh tế đa dạng và đã trở thành
vùng có nền kinh tế phát triển hàng đầu cả nước.
- Nhưng cơ
cấu kinh tế của vùng chưa thật hợp lí, chủ yếu là nông nghiệp với ngành trồng
lúa, nên chưa khai thác hết tiềm năng của vùng, hơn nữa ngành trồng lúa đang
tiến dần tới giới hạn của khả năng sản xuất.
- Đồng bằng
sông Hồng chịu sức ép của dân số khá lớn, nên việc phát triển kinh tế với cơ
cấu cũ ( chưa hợp lý) không đáp ứng được nhu cầu mọi mặt của nhân dân trong
vùng…
=> Vì vậy, phải chuyển dịch cơ cấu kinh tế để
lôi quấn hết tiềm năng của vùng vào việc phát triển kinh tế với nhịp độ cao,
khắc phục những hạn chế khó khăn, cải thiện và nâng cao chất lượng cuộc sống
của nhân dân trong vùng, góp phần quan trọng vào việc phát triển kinh tế-xã hội
của đất nước.
b. Thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
-
Từ khi công cuộc Đổi mới được triển khai đến nay, cơ cấu kinh tế theo ngành của
Đồng bằng sông Hồng đã có sự chuyển dịch theo hướng
+
Tỉ trọng của nông-lâm-ngư nghiệp giảm từ 49,5% (năm 1986) xuống cũn 25,1% (năm 2005).
+
Tỉ trọng của công nghiệp-xây dựng tăng từ 21,5% (năm1986) lờn
29,9% (năm 2005).
+ Tỉ trọng của dịch vụ tăng từ 29,0% (năm 1986
45% (năm 2005)
- Sự chuyển cơ cấu
kinh tế theo ngành ở Đồng bằng sông Hồng còn thể hiện khá rõ trong nội bộ từng
ngành đối với công nghiệp: xuất hiện của các
khu công nghiệp tập trung, khu chế xuất, đối với nông nghiệp hỡnh thành các trang trại chăn
nuôi, trang trại nuôi thuỷ sản và kinh doanh tổng hợp ngày càng nhiều. Đối với dịch vụ Các hoạt động ngày càng đa dạng, thương mại,
tài chính, ngân hàng, du lịch...đặc biệt hệ thống chợ quê, chợ đầu mối được
củng cố mở rộng, các điểm du lịch xuất hiện ngày càng nhiều...
ð cơ cấu kinh tế theo ngành ở Đồng bằng sông
Hồng đang chuyển dịch theo chiều hướng tích cực, phù hợp với quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá và nền kinh tế hàng hoá của đất nước.
- Tuy nhiên, tốc độ
chuyển dịch còn chậm, chậm hơn tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế chung của cả
nước. Năm 2005 cơ cấu kinh tế theo ngành của cả nước là: nông-lâm-ngư nghiệp
21%, công nghiệp-xây dựng 41%, dịch vụ 38%.
c. Các
định hướng chính.
- Xu hướng chung là tiếp tục giảm tỉ trọng của khu
vực I ( nông-lâm-ngư nghiệp), tăng nhanh tỉ trọng của khu vực II (công
nghiệp-xây dựng) và khu vực III (dịch vụ) trên cơ sở đảm bảo tăng trưởng kinh
tế với tốc độ nhanh, hiệu quả cao gắn với việc giải quyết các vấn đề xã hội và
môi trường. Đến năm 2010, tỉ trọng của các khu vực tương ứng sẽ là 20%, 34% và
46%.
- Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nội bộ từng
ngành có sự khác nhau, nhưng trọng tâm là phát triển và hiện đại hoá công
nghiệp chế biến, trong khi các ngành công nghiệp khác và dịch vụ gắn với yêu
cầu phát triển nền nông nghiệp hàng hoá.
+ Đối với khu vực I, giảm tỉ trọng của ngành trồng
trọt, tăng tỉ trọng của ngành chăn nuôi và thuỷ sản. Trong ngành trồng trọt lại
giảm tỉ trọng của cây lương thực và tăng dần tỉ trọng của cây công nghiệp, cây
thực phẩm, cây ăn quả.
+ Đối với khu vực II, quá trình chuyển dịch gắn với
việc hình thành các ngành công nghiệp trọng điểm để sử dụng có hiệu quả các thế
mạnh về tự nhiên và con người của vùng. Đó là các ngành chế biến lương
thực-thực phẩm, dệt-may, giày-da, sản xuất vật liệu xây dựng, cơ khí-điện tử.
+ Đối với khu vực III, khai thác hết tiềm năng du
lịch, nhất là Hà Nội và vùng phụ cận, Hải Phòng. Các dịch vụ khác như tài
chính, ngân hàng, giáo dục-đào tạo... cũng phát triển mạnh nhằm góp phần đẩy
nhanh tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
3. Khai thác lãnh thổ theo chiều sâu trong công nghiệp ở Đông Nam Bộ.
- Đông Nam Bộ có nhiều tiềm năng để
phát triển công nghiệp, công nghiệp của vùng khá phát triển, chiếm tỉ trọng cao
nhất (hơn 55%) trong cơ cấu giá trị sản lượng công nghiệp của cả nước.
- Cơ cấu ngành công nghiệp của
vùng khá đa dạng, nổi bật là các ngành công nghệ cao như: luyện kim, điện tử,
chế tạo máy, tin học, hoá chất, hoá dược, thực phẩm... Việc phát triển công
nghiệp của vùng đặt ra nhu cầu rất lớn về
năng lượng.
-
Để công nghiệp phát triển theo chiều sâu, vùng đã từng bước phát triển nguồn
điện và mạng lưới điện ở trong vùng:
+
xây dựng các nhà máy thuỷ điện Trị An trên sông Đồng Nai (400 MW), thuỷ điện
Thác Mơ trên sông Bé (150 MW), thuỷ điện Cần Đơn trên sông Bé và Thác Mơ mở rộng đang được xây
dựng. Xây dựng các nhà máy nhiệt điện tuốc bin khí Bà Rịa-Vũng Tàu, Phú Mỹ,
trong đó lớn nhất là trung tâm điện lực Phú Mỹ (các nhà máy Phú Mỹ 1, 2, 3, 4)
có tổng công suất thiết kế 4000 MW.
+
Sử dụng nguồn điện lưới quốc gia qua đường dây 500 KV Hoà Bình- Phú Lâm ( Thành
phố Hồ Chí Minh). Vùng xây dựng các trạm biến áp 500 KV và một số tuyến đường
dây 500 KV (Phú Mỹ-Nhà Bè, Nhà Bè-Phú Lâm), hàng loạt công trình cao thế (220
KV), trung thế và hạ thế được xây dựng theo quy hoạch.
-
Sự phát triển công nghiệp của vùng đó thu hút đầu tư của
nước ngoài để có vốn, kĩ thuật, công nghệ trang bị cho công nghiệp phát triển
theo chiều sâu. Trong thời kỳ 1988-2006, vùng Đông Nam Bộ đã thu hút được 61,2%
số dự án đầu tư nước ngoài của cả nước và 53,7% tổng số vốn đăng kí của cả
nước.
-
Trong qua trình phát triển công nghiệp theo chiều
sâu, vấn đề bảo vệ môi truờng cũng đuợc quan tâm và đặt ra để ngăn chặn sự ô
nhiễm môi trưòng do chất thải của công nghiệp. Đồng thời sự phát triển công
nghiệp cũng cần tránh làm tổn hại đến tiềm năng du lịch của vùng.
4.Sử dụng và cải tạo tự nhiên
đồng bằng Sông Cửu Long.
- Đồng bằng sông Cửu Long có nhiều ưu thế hơn về tự
nhiên so với Đồng bằng sông Hồng, đã và đang được khai thác mạnh mẽ trong những
năm gần đây. Năm 2005 diện tích được khai thác và sử dụng chiếm 80,3% diện tích
tự nhiên của đồng bằng, trong đó đất nông nghiệp chiếm 63,4% diện tích đồng
bằng.
- Là đồng bằng trẻ, còn đang cấu tạo dở dang, nên
việc khai thác và sử dụng phải kết hợp với cải tạo tự nhiên mới đem lại hiệu
quả kinh tế và môi trường, đảm bảo cho sự phát triển bền vững.=> Vì vậy,
việc sử dụng hợp lí và cải tạo tự nhiên ở Đồng bằng sông Cửu Long trở thành vấn
đề cấp bách nhằm biến nơi đây thành một khu vực kinh tế quan trọng của đất nước
trên cơ sở phát triển bền vững.
- Việc sử dụng và cải tạo tự nhiên ở Đồng bằng sông
Cửu Long đã và đang được tiến hành.
+ Đối với các vùng đất bị nhiễm phèn, nhiễm mặn, chia
đồng ruộng thành các ô nhỏ để có đủ nước thau chua, rửa mặn, đồng thời tạo ra
các giống lúa chịu phèn, chịu mặn trong điều kiện tưới tiêu bình thường.
Những năm gần đâycác dự án đầu tư lớn cho thoát lũ,
cải tạo đất phèn, đất mặn, cấp nước ngọt, ... được triển khai nên các vùng đất
phèn lớn như Đồng Tháp Mười, Tứ giác Long Xuyên
+ Đối với
khu vực có rừng, do di dân khai khẩn đất hoang hoá, phát triển nuôi tôm và cháy
rừng, nên diện tích rừng giảm sút làm mất cân bằng sinh thái.
ð
Việc
sử dụng và cải tạo tự nhiên ở Đồng bằng sông Cửu Long không tách khỏi hoạt động
kinh tế của con người. Vì vậy, cần theo các hướng chủ yếu sau:
-Phải chuyển đổi cơ cấu kinh tế, phá thế độc canh,
đẩy mạnh trồng cây công nghiệp có giá trị, cây ăn quả, kết hợp nuôi trồng thuỷ
sản, phát triển công nghiệp chế biến và dịch vụ.
-Việc sử dụng và cải tạo tự nhiên không thể đồng
nhất hoá toàn đồng bằng mà tuỳ theo các khu vực có điều kiện tự nhiên khác
nhau, có hướng sử dụng và cải tạo khác nhau. Đối với vùng đất phù sa ngọt ven
sông cần kết hợp xen canh, tăng vụ, thâm canh cao độ để tận dụng những thuận
lợi của vùng đất này, đồng thời kết hợp với bảo vệ, tránh làm đất bị bạc màu.
+ Đối với những vùng đất phèn, đất mặn thì vấn đề
chính là phải có nước ngọt để thau chua rửa mặn. Vì vậy giải pháp thuỷ lợi có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng, đồng thời tạo ra các giống lúa chịu được phèn, chịu
mặn trong điều kiện tưới tiêu bình thường.
+ Đối với khu vực có rừng, cần phải duy trì và bảo
vệ tài nguyên này để đảm bảo cân bằng sinh thái và bảo vệ môi trường. Đối với
khu vực rừng ngập mặn phía nam và tây nam đồng bằng có thể từng bước biến thành
các đầm nuôi tôm kết hợp trồng sú, vẹt, đước để bảo vệ môi trường sinh thái. Có
thể cải tạo dần diện tích đất mặn, đất phèn thành các vùng đất phù sa mới để
trồng cói, cây ăn quả sau đó trồng lúa.
+ Đối với vùng biển cần kết hợp mặt biển với đảo,
quần đảo và đất liền để tạo nên một thế kinh tế liên hoàn, nhằm khai thác tổng
hợp vùng này.
5. Các đảo và quần đảo có ý nghĩa
chiến lược trong phát triển kinh tế và bảo vệ an ninh vùng biển.
a-
Vùng biển nước ta có hơn 4000 hòn đảo lớn nhỏ.
Vùng biển
nước ta có những đảo đông dân như Cái Bầu, Cát Bà, Lý Sơn, Phú Quý, Phú Quốc.
Có những nơi, đảo cụm lại thành quần đảo như Vân Đồn, Cô Tô, Cát Bà, quần đảo
Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa, quần đảo Côn Sơn, quần đảo Nam Du, quần đảo Thổ
Chu.
Các đảo và quần đảo tạo thành hệ thống tiền tiêu
bảo vệ đất liền, hệ thống căn cứ để nước ta tiến ra biển và đại dương, khai
thác có hiệu quả các nguồn lợi vùng biển , hải đảo và thềm lục địa.
Việc khẳng định chủ quyền nước ta đối với các đảo
và quần đảo có ý nghĩa là cơ sở để khẳng định chủ quyền của nước ta đối với
vùng biển và thềm lục địa quanh đảo.
b-
Các huyện đảo ở nước ta.
Đến năm 2006, nước ta có các huyện đảo sau:
Huyện đảo Vân Đồn và huyện đảo Cô Tô (tỉnh
Quảng Ninh).
Huyện
đảo Cát Bà và huyện đảo Bạch Long Vĩ (thành phố Hải Phòng).
Huyện đảo Cồn Cỏ (tỉnh
Quảng Trị).
Huyện đảo Hoàng Sa (thành phố Đà Nẵng).
Huyện đảo Lý Sơn (tỉnh
Quảng Ngãi).
Huyện
đảo Trường Sa (tỉnh Khánh Hòa).
Huyện
đảo Phú Quý (tỉnh Bình Thuận).
Huyện
đảo Côn Đảo (tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu).
Huyện
đảo Kiên Hải và huyện đảo Phú Quốc (tỉnh Kiên Giang)
II. BÀI TẬP
Học sinh biết cách vẽ
các dạng biểu đồ tròn. Biểu đồ miền, biểu đồ đường, biểu đồ cột...( Giáo viên
hướng dẫn cụ thể trên lớp).
Nhóm chuyên môn Địa lý
All comments [ 0 ]
Your comments