Vẻ đẹp người linh trong bài thơ Tây Tiến
Thứ Hai, 26 tháng 3, 2018
1. Hình tượng người lính trong thơ ca k/c chống Pháp
- Trong thế kỉ XIX, ít có dân tộc nào như dân tộc Việt Nam, trong vòng 30 nam phải đương đầu với hai sen đầm quốc tế hùng mạnh là Pháp và Mĩ. Đe chiến thắng kẻ thù, không còn sự lựa chọn nào khác, chúng ta sẵn sàng chấp nhận hi sinh tất cả vì chân lí”Không có gì quý hơn độc lạp tự do”. Trong hoàn cảnh lịch sử ấy, một cách thật tự nhiên, hình ảnh người lính trở thảnh một hình ảnh nổi bật nhất trong thơ ca. Và cũng thật tự nhiên, hình ảnh người lính là biểu tượng cho vẻ đẹp cao cả, là biểu tượng về một dân tộc bền gan vững chí trước thử thách sống còn. Hơn nửa thế kỉ trôi qua, từ những ngày đầu trường kì chống Pháp đến nay, việc khám phá vẻ đẹp của người lính là niềm thôi thúc với nhiều người cầm bút. Mỗi thời mỗi nhà thơ, bằng cách riêng của mình đều cố thể hiện vẻ đẹp của người lính cụ Hồ.
- Nét độc đáo của văn học là đội ngũ viết về người lính phần lớn là người lính. Vì thế, thơ viết về người lính cũng là viết về chính mình, đồng đội mình. Điều ngỡ như đơn giản ấy lại là ý nghĩa quan trọng trong quá trình hình thành cảm xúc và cấu trúc trong thi pháp thơ. Hình tượng người linha vẫn mang những nét xác thực trong đời sông chiến đấu, vừa tái hiện trong cảm hứng nghệ thuật đầy chất sử thi và lãng mạn. Những thi phẩm xuất sắc về người lính cũng chính là những tác phẩm được tạo nên trên cơ sở kết hợp đến mức nhuần nhuyễn giữa hai thứ “vật liệu” nghệ thuật này.
(Đọc thơ ca Việt Nam 1945 – 1975, chúng ta thấy cuồn cuộn niềm vui của hàng triệu người ra trận, thấy được những mất mát đau thương, những khát khao, ước vọng chân thành… Ba mươi năm liên tục đấu tranh chống kẻ thù cũng là khoảng thời gian văn học phát triển mạnh mẽ không ngừng dưới sự lãnh đạo của Đảng. Văn học lấy đề tài chiến tranh, viết về chiến tranh cách mạng. Thơ cũng như văn, hết lòng ca ngợi người anh hùng, người lính, người mẹ, thanh niên xung phong… Tất cả hiện lên trong tác phẩm với mọi tầng lớp, lứa tuổi, dân tộc… y như thật ở trên đời. Và họ đẹp – cái đẹp tiêu biểu cho cả thời đại. Cái đẹp ấy kết tinh đậm đà ở hình tượng anh bộ đội cụ Hồ – anh vệ quốc quân, anh giải phóng quân. Bởi các anh chính là người anh hùng suốt hai cuộc kháng chiến trường kì).
2. Vị trí đoạn thơ:
- Đây là đoạn thứ 3 của bài thơ, tập trung khắc họa hình tượng người lính Tây Tiến với cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng.
3. Vẻ đẹp người lính Tây Tiến qua đoạn thơ:
a. Ngoại hình: được vẽ với những nét phi thường, khác lạ, mang vẻ đẹp bi tráng
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
- “Bi” là đau thương. “Tráng” là hùng tráng, hào hùng. Nghĩa là trong đau thương vẫn hào hùng lẫm liệt.
+ Cái bi thương của người lính được gợi lên từ ngoại hình ốm yếu, tiều tụy, đầu trọc, da dẻ xanh như màu lá. Đoàn quân trông thật kì dị: “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc”. Sở dĩ người lính Tây Tiến đầu trọc danh xanh là do hậu quả của những tháng ngày hành quân vất vả vì đói và khát, là dấu ấn của những trận sốt rét ác tính làm tóc rụng không mọc lại được, da dẻ héo úa như tàu lá.
+ Bên cạnh cái bi ta còn thấy cái Hào hùng: thủ pháp nghệ thuật đối lập giữa ngoại hình ốm yếu và tâm hồn bên trong đã làm nên khí chất mạnh mẽ của người lính. “Không mọc tóc” là cách nói ngang tàng rất lính, hóm hỉnh vui đùa với khó khăn gian khổ của mình. Mặt khác cái hào hùng còn hiện lên qua cách dùng từ Hán Việt “đoàn binh” . Chữ “đoàn binh” chứ không phải là đoàn quân đã gợi lên được sự mạnh mẽ lạ thường của sự hùng dũng. Ba từ “dữ oai hùm” gợi lên dáng vẻ oai phong lẫm liệt của chúa sơn lâm. Qua đó ta thấy người lính Tây Tiến vẫn mạnh mẽ làm chủ tình hình, làm chủ núi rừng, chế ngự mọi khắc nghiệt xung quanh, đạp bằng mọi gian khổ. “Mắt trừng” là đôi mắt dữ tợn, căm thù, mạnh mẽ, nung nấu quyết đoán làm kẻ thù khiếp sợ.
b. Nội tâm: lãng mạn, hào hoa
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
- Người lính Tây Tiến trông có vẻ dữ dằn, ngang tàng ấy lại là con người có đời sống nội tâm phong phú, cao đẹp, lãng mạn.
- Mộng mơ của người lính Tây Tiến gửi về hai phía khác nhau, mộng giết giặc lập công và mơ về Hà Nội với dáng kiều thơm. 3 chữ “dáng kiều thơm” gợi hình ảnh những thiếu nữ Hà thành đẹp duyên dáng, kiêu sa, thơm tho, quý phái. Đi chiến đấu, người lính nào cũng nhớ về hậu phương, nhớ về những người thân yêu. Trong thơ Chính Hữu, thơ Hồng Nguyên, người chiến sĩ cũng nhớ về quê hương nhưng đây là nỗi nhớ của người lính xuất thân nông dân nên mộc mạc, giản dị gắn liền với căn nhà, mảnh ruộng, giếng nước, gốc đa. Những chiến sĩ Tây Tiến là những chàng trai Hà Nội nên trong hành trang tinh thần của họ không thể thiếu những dáng kiều thơm đẹp quyến rũ. Như vậy, người lính Tây Tiến không chỉ biết cầm súng cầm gươm theo tiếng gọi của non sông mà còn rất hào hoa, giữa bao nhiêu gian khổ, thiếu thốn trái tim họ vẫn rung động, nhớ nhung, tràn đầy tình yêu với con người, cuộc sống. Có một thời người ta hiểu rằng câu thơ này mang mộng tiểu tư sản quá nhiều làm giảm đi tính chiến đấu. Nhưng thời gian đã chứng minh rằng đó là một vẻ đẹp của tấm lòng luôn hướng về Tổ quốc, hướng về Thủ đô. Người lính dẫu ở nơi biên cương hay viễn xứ xa xôi nhưng lòng lúc nào cũng hướng về Hà Nội, về quê hương. Chính quê hương tăng thêm cho họ sức mạnh để đi “Lấy máu nó trả thù này”. Và đây là câu thơ xuất thần “Nghìn năm mới có một lần”.
c. Lí tưởng: quên mình vì Tổ quốc
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
- Câu thơ “Rải rác biên cương mồ viễn xứ” toàn từ Hán Việt gợi không khí cổ kính: “biên cương”, “viễn xứ” là nơi biên giới xa xôi, nơi heo hút hoang lạnh. Nhà thơ nhìn thẳng vào sự khốc liệt của chiến tranh, miêu tả về cái chết, không né tránh hiện thực. Những nấm mồ hoang lạnh vô danh mọc lên dọc đường hành quân nhưng không làm chùn bước chân Tây Tiến. Khi miêu tả những người lính Tây Tiến, ngòi bút của Quang Dũng không hề nhấn chìm người đọc vào cái bi thương, bi lụy. Cảm hứng của ông mỗi khi chìm vào cái bi thương lại được nâng đỡ bằng đôi cánh của lí tưởng, của tinh thần lãng mạn. Chính vì vậy mà hình ảnh những nấm mồ chiến sĩ rải rác nơi rừng hoang biên giới xa xôi đã bị mờ đi trước lí tưởng quên mình vì Tổ quốc của người lính Tây Tiến. Vì thế cho nên câu thơ tiếp theo dữ dội như một lời thề sông núi: “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”.
- Chiến trường là đạn bom ác liệt, là hi sinh mất mát. Đời xanh là tuổi trẻ của mỗi người ai cũng quý cũng trân trọng. Vậy mà người lính lại "chẳng tiếc đời xanh". Câu nói ấy vang lên chắc nịch mang cái vẻ bất cần, mang cái vẻ ngạo nghễ rất lính. Họ đã ra đi không tiếc tuổi thanh xuân, đã hiến trọn đời mình cho Tổ quốc, đất nước. Bởi chết cho tổ quốc chính là chết cho lí tưởng. Câu thơ gợi nhớ âm hưởng hào hùng của những lời ca đã từng vang lên khắp mọi nẻo đường kháng chiến: “Đoàn vệ quốc quân một lần ra đi/ Nào có mong chi đâu ngày trở về”.
d. Sự hy sinh bi tráng:
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
- Áo bào là áo vua ban cho những người làm nên công trạng. Sự thật người lính Tây Tiến ngã xuống nhiều khi phải vùi xác bên đường hành quân đến manh chiếu bọc thây cũng không có. Nhưng qua cái nhìn lãng mạn của Quang Dũng, người lính như được bọc trong tấm áo bào sang trọng. Hình ảnh áo bào làm cho người lính Tây Tiến thêm phần đẹp đẽ, lẫm liệt, hào hùng. Cuộc tiễn đưa trở nên bi tráng.
- Sự ra đi của người lính được Quang Dũng dùng nghệ thuật nói giảm nói tránh “anh về đất”, làm dịu đi cái đau thương nhưng không tránh cho người đọc khỏi ngậm ngùi. “Anh về đất” là về với đất mẹ. Đất mẹ giang rộng vòng tay đón các anh trở về sau khi đã hoàn thành nhiệm vụ. Đặc biệt sự hi sinh ấy không chỉ làm cảm động đến con người mà còn làm cảm động đến cả thiên nhiên Tây Bắc. Con sông Mã xuất hiện ở đầu bài thơ trong nỗi nhớ chơi vơi của nhà thơ thì ở đoạn thơ này sông Mã lại xuất hiện trong tiếng gầm dữ dội. Đó là “khúc độc hành” của thiên nhiên đang tấu lên khúc nhạc thiêng liêng, trầm hùng đưa người lính về nơi an nghỉ cuối cùng.
(Không chỉ trong thời chiến, vất vả gian nan mới là bạn đồng hành của người lín mà nay trong thời bình người lính vẫn nhận lấy phần thua thiệt của mình. Vì nhiệm vụ bảo vệ ổ quốc người lính lại một lần nữa chấp nhận hi sinh. Đây là hình ảnh người lính thời bình qua cái nhìn chân thực và cảm động của Nguyễn Trọng Tạo:
Em ơi em em trong trắng vô tư
Nếu em đã đem lòng yêu người lính
Giờ tan ca đừng mong người yêu đón
Ước sao trời hãy tin đấy là anh
Nếu em là vợ lính thời bình
Hãy xem bài cho con sau mỗi giờ học
Con khó bảo đừng một mình ngồi khóc
Đừng đợi anh xách nước thổi cơm chiều)
4. Đánh giá:
- Hình tg người lính TT mang vẻ đẹp bi tráng, vừa phảng phất cốt cách chinh phu tráng sĩ thuở xưa vừa mang cốt cách của những anh hùng thời đại, vừa hào hùng vừa hào hoa.
- Đoạn thơ kết hợp hài hòa bút pháp hiện thực và bút pháp lãng mạn; sử dụng phối hợp nhiều thủ pháp nghệ thuật tạo âm hưởng bi hùng.
(Cách 2: Thành công của đoạn thơ là nhà thơ đã sử dụng nhiều từ Hán Việt gợi sắc thái cổ kính, trang nghiêm. Sử dụng nghệ thuật ẩn dụ, đối lập, nhân hóa, nói giảm nói tránh. Lời thơ hàm súc vừa đượm chất hiện thực vừa gợi chất hào hùng, bi tráng. Bút pháp lãng mạn và sử thi đã làm nên hình tượng người lính cụ Hồ trong chín năm kháng chiến gian lao mà oai hùng lẫm liệt).
=> Đọc những trang thơ kháng chiến giai đoạn 1945 – 1975, chúng ta hiểu thêm cách nhìn, cách cảm, cách nghĩ của con người sống trong chiến tranh ác liệt. Đồng thời ta thấy được bản chất anh hùng cách mạng của người lính.
Thơ kháng chiến là tiếng đại bác gầm rung và cũng là tiếng chim ca hát bình minh. Chất trữ tình và chất anh hùng ca hoà quyện trong hồn thơ, trong mỗi bài, mỗi câu, mỗi ý thơ. Nó bảo tồn được sức sống không chỉ vì đó là tiếng nói của thời đại lịch sử mà còn là tiếng nói trái tim của những phong cách thơ riêng. Thơ trong giai đoạn này đã phát hiện tư thế người lính đối diẹn với lịch sử, với chân trời tự nhiên luôn giãn nở. Các anh là linh hồn của hai cuộc kháng chiến trường kì. ở các anh có sự hội tụ đầy đủ phẩm chất, tâm hồn và tính cách, hành động tiêu biểu cho những con người anh hùng dân tộc.
5. Lí tưởng sống của thế hệ trẻ hiện nay:
- Người lính TT đã thể hiện lí tưởng sống của thế hệ thanh niên thời k/ccP: quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”.
- Trong thời bình hôm nay, thế hệ thanh niên đã xây dựng cho mình lí tưởng xây dựng quê hương đất nước giàu đẹp. Tuy có 1 số bạn trẻ sống thờ ơ, hời hợt, vô trách nhiệm, ko có lí tưởng nhưng đó chỉ là thiểu số.
- Liên hệ bản thân: bài học nhận thức và hành động.
Đọc bài thơ, thế hệ thanh niên càng nhận thức rõ hơn về vai trò, sứ mệnh thế hệ mình là gì, nhận thức rõ hơn lí tg sống của thế hệ mình => Học tập, rèn luyện để ngày mai lập nghiệp, chuẩn bị hành trang vào đời, trở thành lực lượng đi đầu xây dựng đất nước đẹp tươi. Mỗi người bằng công sức nhỏ bé của mình, làm 1 mùa xuân nho nhỏ của đ/nc:
“Em ơi em đất nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên đất nước muôn đời”. (ĐN – NKĐ)
All comments [ 0 ]
Your comments