HƯỚNG DẪN ÔN TẬP BÀI VĂN TẾ NGHĨA SĨ CẦN GIUỘC - NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU

Thứ Hai, 5 tháng 12, 2016

 I. Những nội dung cơ bản
1. Về tác giả
- Con người Nguyễn Đình Chiểu là tổng hoà của ba khía cạnh:
 + Một nhà nho, nhà giáo mẫu mực.
 + Một thầy thuốc y đức.
 + Một nhà thơ, nhà văn yêu nước.
- Quan điểm sáng tác: Văn thơ để nói đạo lí và chiến đấu cho sự nghiệp chính nghĩa.
2. Tìm hiểu chung về tác phẩm
a. Hoàn cảnh sáng tác
- Viết trong buổi nhân dân tổ chức truy điệu các nông dân nghĩa sĩ đã hi sinh trong trận tấn công đồn Cần Giuộc ngày 16/12/1861.
- Tác phẩm ra đời vào cuối 1861, đầu 1862. Đây là thời điểm cả nước, đặc biệt là nhân dân miền Nam đang sôi sục đứng lên chống lại thực dân Pháp. Ngày 16/12/1861 xảy ra một trận đánh đồn Cần Giuộc, nhiều nghĩa sĩ nông dân đã tập kích, phá đồn, tiêu diệt được nhiều giặc Pháp và tay sai, trong trận này, nghĩa binh chết gần 20 người. Cảm kích trước lòng dũng cảm của nghĩa sĩ, tuần phủ Gia Định giao cho cụ Đồ Chiểu viết bài văn tế đọc tại buổi lễ truy điệu các nghĩa sĩ.
b. Thể loại
Bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc được viết theo thể phú luật Đường trong đó có cách hiệp vần độc vận (một vần) hoặc liên vận (nhiều vần), cách đặt câu (gồm các kiểu câu: tứ tự, bát tự, song quan, cách cú và gối hạc) và luật bằng trắc.
c. Bố cục: 4 đoạn:
- Lung khởi ( câu 1-2): Khái quát bối cảnh bão táp của thời đại và khẳng định ý nghĩa cái chết bất tử của người nông dân - nghĩa sĩ.
- Thích thực ( từ câu 3 15 ): Tái hiện chân thực hình ảnh người nông dân nghĩa sĩ, từ cuộc đời lao động vất vả, tủi cực đến giây phút vươn mình trở thành dũng sĩ đánh giặc và lập chiến công.
- Ai vãn ( câu16 - 28 ): Bày tỏ lòng tiếc thương, sự cảm phục của tác giả và nhân dân đối với người nghĩa sĩ
-  Kết ( 2 câu cuối ): Ca ngợi linh hồn bất tử của các nghĩa sĩ.
2. Nội dung và nghệ thuật
 a. Hình ảnh người nông dân nghĩa sĩ được tái hiện:
- Xuất thân: Những người chiến sĩ cần giuộc đều xuất thân từ những người nông dân chất phát cần cù làm ruộng, “việc cuốc việc cày việc bừa tay đã làm quen”.
– Vẻ bề ngoài chỉ là những người nông dân nhưng họ lại có những phẩm chất rất đáng ngợi khen, do hoàn cảnh nghèo đói túng thiếu những người chiến sĩ này phải chăm chỉ làm ăn và có những chiến công vang dội cho dân cho nước.
– Họ có một tấm lòng rất đáng quý dam xả thân vì đất nước tuy tay cày tay bừa nhưng khi có chiến tranh họ sẵn sàng cầm súng để chiến đấu, không một kẻ thù nào có thể đánh bại ý chí kiên cường của những người chiến sĩ cần giuộc.
– Những biểu hiện của lòng câm thù giặc: bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan, ngày xem ông khói chạy đen sì muốn ra cắn cổ… đây là những biểu hiện của lòng căm thù quân giặc không có một hành đọng nào của kẻ thù mà nhân dân ta bỏ qua, muốn tới ăn gan, cắn cổ đây là những biểu hiện thẻ hiện lòng căm thù mọt cách sâu sắc.
– Công cụ chiến đấu và trang bị cá nhân của những người chiến sĩ rất thô sơ và mộc mạc, đối lập với công cụ chiến đâu của ta thì kẻ thù lại có những đạn to đạn nhỏ tàu đồng, ta thì vũ khí thô sơ, nhưng điều đó không làm cho nhân dân ta nản chí và lùi bước những hành động và những động từ mạnh được tác giả sử dụng đó là đam ngang, đâm chéo…
b. Tiếng khóc bi thương của tác giả.
– Tác giả đau xót cho những người đã mất, những người dã hy sinh cho đất nước: những người chiến sĩ nằm lại nơi chiến trường để lại ở nhà con thơ và những người mẹ leo đơn, tác giả đã khóc thương cho số phận của những người chiến sĩ những nỗi đau xót xa không bao giờ nguôi, nối đau này không bao giờ bi bi lụy bởi những sự hy sinh của những người chiến sĩ này rất to lớn, nó có thể để lại suy nghĩa cho bao thế hệ hôm nay và mai sau có thể biết ơn và noi theo tinh thần xả thân của những người chiến sĩ cách mạng.
c. Nghệ thuật
– Hình tượng xây dựng nhân vật của tác giả, tác giả đã rất thành công trong việc kết hợp nhuần nhuyễn chất trữ tình và tính hiện thực, ngôn ngữ của bài văn tế giản dị gần gũi mang đạm chất Nam Bộ, những hình ảnh người chiến sĩ thật sinh động qua những tấm áo rách, những công cụ chiến đấu thô sơ nhưng tinh thần chiến đấu vẫn rất kiên cường.
– Bài văn tế là tiếng khóc bi tráng cho một thời kì lịch sử đau thương những vĩ dại cho cả một dân tộc, những hình ảnh về người chiến sĩ cần giuộc sẽ còn mãi trong thơ văn việt nam.
II. Một số lưu ý khi làm bài
Cảm hứng yêu nước trong "Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc":
1. Tiếng khóc đau thương cho thế nước hiểm nghèo
- Mở đầu bài văn tế là một lời than qua hai câu tứ tự song hành. Hai tiếng “Hỡi ôi!” vang lên thống thiết là tiếng khóc nghẹn ngào của nhà thơ đối với nghĩa sĩ Cần Giuộc đã anh dũng hy sinh vì vận mệnh của Tổ quốc, là tiếng nấc đau thương cho thế nước hiểm nghèo: “Súng giặc đất rền; lòng dân trời tỏ”:
-> Khái quát đầy đủ hai mặt của biến cố chính trị lớn lao: một bên là cuộc xâm lăng ào ạt, tàn bạo của kẻ thù với vũ khí tối tân “súng”; một bên là vai trò và ý chí chống giặc ngoại xâm luôn âm ỉ trong nhân dân nay bỗng bùng lên sáng ngời.
2. Khắc họa hình tượng người nghĩa sĩ Cần Giuộc
- Cuộc sống nhỏ lẻ, đời tiếp đời nối cái nghèo khó để tồn tại: 
- Có lòng căm thù giặc sâu sắc: “Mùi tinh chiên vấy vá đã ba năm, ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ”. Dẫn đến hành động: “Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tối ăn gan; ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ”.
-> Có thể nói, lòng yêu nước từ trong xương, trong máu, không phải từ những khái niệm sách vở nào. Họ yêu nước là yêu tấc đất, ngọn rau của họ, là bảo vệ bát cơm manh áo, bảo vệ bát hương, cái bàn thờ ông bà cha mẹ, cũng như thuần phong mỹ tục của xóm làng.
- Ý chí căm thù còn được nâng cao trong sự gắn bó sâu sắc với ý thức công dân về trách nhiệm bảo vệ giang sơn, bảo vệ chủ quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của Tổ quốc.
- Vũ khí của ta chỉ có “một ngọn tầm vông”, hoặc “một lưỡi dao phay”, một súng “hoả mai” khai hoả “bằng rơm con cúi”. Trái lại, giặc Pháp có đầy đủ các vũ khí tối tân như “tàu thiếc, tàu đồng”, “đạn nhỏ, đạn to”, có bọn lính đánh thuê “mã tà, ma ní” thiện chiến. Vậy mà, những người “dân ấp, dân lân” vẫn lập được chiến công: “đốt xong nhà dạy đạo kia” và “chém rớt đầu quan hai nọ”. Khí giới quyết định của họ là tinh thần tự tôn dân tộc, tình thương yêu giống nòi và ý chí căm thù sâu sắc quân cướp nước và bè lũ bán nước.
- Vượt qua mọi gian nguy, với tinh thần “mến nghĩa”, với khí thế hăng hái, và lòng dũng cảm vô song, người nông dân Cần Giuộc đã xông lên mạnh như vũ bão.
=> Hình ảnh người nông dân - nghĩa quân hiện lên như bức tượng đài nghệ thuật hào hùng tới mức hiếm có “vô tiền khoáng hậu”, bao nhiêu năm sau chưa có cây bút nào vượt được.
3. Lên án triều đình nhà Nguyễn và thực dân Pháp
- Khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, người nông dân mong mỏi một vị phúc tinh: “trông tin quan như trời hạn trông mưa”. Nhưng thực tế lịch sử ngày càng chứng tỏ vai trò bất lực, ươn hèn và thái độ vô trách nhiệm của giai cấp phong kiến đương thời mà tiêu biểu là triều đình nhà Nguyễn đối với vận mệnh của nhân dân, đất nước.
- Kể tội ác của giặc và bóc trần những thủ đoạn gian trá gọi rằng khai hóa, gọi rằng đưa lại văn minh. Nguyễn Đình Chiểu dứt khoát xem thực dân Pháp là man rợ:“mùi tinh chiên vấy vá đã ba năm, ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ”.
-> Qua bài văn tế, Nguyễn Đình Chiểu đã thể hiện rất rõ thái độ “không đội trời chung” đối với quân xâm lược và bè lũ bán nước.
4. Lòng tiếc thương của tác giả và nhân dân đối với liệt sĩ
- Thể hiện tấm lòng ngưỡng mộ, tiếc thương của tác giả, của nhân dân và của gia đình đối với những người nông dân yêu nước, những nghĩa sĩ, những anh hùng vô danh. Nỗi tiếc thương được nảy sinh từ cảnh ngộ éo le, từ cuộc đời chiến đấu của nghĩa sĩ chưa thỏa chí bình sinh mà cái chết đã phũ phàng ập tới:
“Nước mắt anh hùng lau chẳng ráo”.
- Thiên nhiên quê hương, con người quê hương khóc thương cho sự hi sinh của những người nghĩa sĩ và khóc cho cả Tổ quốc đau thương.
=> Như vậy, Nguyễn Đình Chiểu đã nhân danh lịch sử mà cất tiếng khóc cho những người nông dân - “Nghĩa sĩ Cần Giuộc” - họ đứng trên triều đại, đã làm nên lịch sử. Họ hy sinh vì non sông vì dân tộc, cái chết cao đẹp của họ đã đi vào vĩnh cửu. Cái chết của họ đã nhuộm đau thương, tang tóc trùm lên vạn vật.
Ở đây, nói về nghệ thuật, quả thật không phải chỉ là vấn đề bút pháp mà điều cốt lõi nhất là cảm xúc chân thành và sâu nặng của tâm hồn, đó là gốc của nghệ thuật trữ tình.
5. Ca ngợi linh hồn bất diệt của các liệt sĩ
- Kết thúc bài văn tế, tác giả tập trung ca ngợi linh hồn bất diệt của các liệt sĩ: “Ôi!
Một trận khói tan, nghìn năm tiết rỡ”
- Khí tiết, tiếng thơm của người trung nghĩa sẽ sống mãi trong lòng mến thương, cảm phục của nhân dân qua các thế hệ:
Thác mà trả nước non rồi nợ, danh thơm đồn sáu tỉnh chúng đều khen;
thác mà ưng đền miếu để thờ, tiếng ngay trải muôn đời ai cũng mộ”.
-
Ca ngợi công ơn lớn lao của người nông dân – nghĩa sĩ Cần Giuộc theo hướng vĩnh viễn hóa thời gian “nghìn năm, muôn đời”: “Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc, linh hồn theo giúp cơ binh, muôn kiếp nguyện được trả thù kia…”.
-
Trách nhiệm của những người đang sống phải đứng lên, viết tiếp trang sử hào hùng chống giặc cứu nước: Cây hương nghĩa sĩ thắp thêm thơm, cám bởi một câu vương thổ”.
                                                                        
                                                                         GV Nguyễn Thị Thùy Linh - NCM Ngữ Văn


Chia sẻ bài viết ^^
Other post

All comments [ 0 ]


Your comments