TỔNG QUAN ÔN THI HỌC KỲ II, MÔN NGỮ VĂN, NĂM HỌC 2016-2017

Chủ Nhật, 7 tháng 5, 2017


I.                   NỘI DUNG GIỚI HẠN, CẤU TRÚC, MỨC ĐỘ, DẠNG HỎI
1.      Nội dung giới hạn
1.1.           Tiếng Việt:
-         Bài 2: Từ ngữ tiếng Việt
-         Bài 3: Ngữ pháp tiếng Việt
-         Bài 4: Văn bản
-         Bài 5: Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ
1.2.           Văn học:
-         Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm
-         Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài
-         Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành
-         Hồn Trương Ba, da hàng thịt của Lưu Quang Vũ
            2. Cấu trúc
                        - Bao gồm hai phần:
                            + Phần I (3,0 điểm): Đọc hiểu
                                    Đoạn trích/văn bản nhật dụng hoặc đoạn trích/văn bản nghệ thuật
                            + Phần II (7,0 điểm): Làm văn
                                    Câu 1 (2,0 điểm): NLXH, viết đoạn văn
                                    Câu 2 (5,0 điểm): NLVH, viết bài văn
            - Thời gian: 120 phút.
3. Mức độ
                        - Kết hợp giữa các mức độ biết – hiểu – vận dụng
                        - Ưu tiên câu hỏi vận dụng, vận dụng sáng tạo
4.      Dạng hỏi
- Phần đọc hiểu: lựa chọn văn bản/đoạn trích văn bản nhật dụng. Thiết kế 04 câu hỏi đọc hiểu.
- Phần làm văn: quan tâm đến các dạng hỏi mở:
+ Câu 1: nghị luận xã hội viết đoạn văn (200 – 300 chữ) dựa trên thông tin của đoạn trích/văn bản đọc hiểu.
+ Câu 2: nghị luận văn học viết bài văn bày tỏ ý kiến, quan điểm, làm sáng tỏ, đánh giá  vấn đề, ý nghĩa vấn đề,…

II.               MỘT SỐ ĐỊNH HƯỚNG
1.      Các nội dung tiếng Việt
-         Không xây dựng thành đề kiểm tra
-         HS nắm vững các nội dung chính của các bài 2,3,4,5 để trả lời các câu hỏi đọc hiểu và tạo lập đoạn trích/ văn bản

2.      Phần đọc hiểu
-         Lựa chọn văn bản/đoạn trích văn bản nhật dụng. Thiết kế 04 câu hỏi đọc hiểu.
-         Câu hỏi xoay quanh các dạng:
+ Phương thức biểu đạt
+ Phong cách chức năng ngôn ngữ
+ Biện pháp tu từ
+ Ý nghĩa từ/cụm từ
+ Suy nghĩ/cảm nhận/thái độ/quan điểm
+ Câu chủ đề
+ Nội dung chính
+ Liên kết câu
+ Thao tác lập luận chính
+ Đề xuất biện pháp
+ So sánh vấn đề trong văn bản với vấn đề tương đương ngoài văn bản
2.2.           Ngữ liệu
Ngữ liệu 1:  
                          Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu:
Điều gì phải thì cố làm cho kì được, dù là một việc phải nhỏ. Điều gì trái, thì hết sức tránh, dù là một điều trái nhỏ.
Trước hết phải yêu Tổ quốc, yêu nhân dân. Phải có tinh thần dân tộc vững chắc và tinh thần quốc tế đúng đắn. Phải yêu và trọng lao động. Phải giữ gìn kỷ luật. Phải bảo vệ của công. Phải quan tâm đến đời sống của nhân dân. Phải chú ý đến tình hình thế giới, vì ta là một bộ phận quan trọng của thế giới, mọi việc trong thế giới đều có quan hệ với nước ta, việc gì trong nước ta cũng quan hệ với thế giới.
Thanh niên cần phải có tinh thần gan dạ và sáng tạo, cần phải có chí khí hăng hái và tinh thần tiến lên, vượt mọi khó khăn, gian khổ để tiến mãi không ngừng. Cần phải trung thành, thật thà, chính trực.
(Trích Một số lời dạy và mẩu chuyện về tấm gương đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh – NXB Chính trị Quốc gia)
Ngữ liệu 2: 
         [1] ...Thật khó để rao giảng sự tự hào dân tộc. Hầu như chúng ta có cảm xúc đó trong một hoàn cảnh cụ thể khi chúng ta đứng trước một biển người cùng hòa vang quốc ca hoặc khi chúng ta nghe một câu chuyện thành công của những nhân tài của đất nước hay chúng ta bất bình trước một vấn đề ảnh hưởng đến con người và quê hương mình. Nhưng hãy nói về một câu chuyện đơn giản hơn, ở lứa tuổi học sinh, chúng ta sẽ thể hiện sự tự hào đó như thế nào?
[2] Tự hào dân tộc không phải là việc chúng ta thuộc ca dao, tục ngữ, thơ văn lưu loát mà là có sự cảm nhận về vẻ đẹp của văn hóa dân tộc và mang trong mình tâm thế chia sẻ, quảng bá những vẻ đẹp truyền thống của đất nước ra thế giới. Tự hào dân tộc không phải là việc chúng ta thuộc lòng những tình tiết lịch sử nước nhà mà là tôn trọng các nền văn hóa, các quốc gia khác nhau và biết hành động vì vị thế của đất nước. Tự hào dân tộc không phải là việc vỗ ngực xưng tên, xem nhẹ các nền văn hóa khác mà là thể hiện bản sắc người Việt trong bối cảnh quốc tế.
(Trích Thư gửi học sinh nhân ngày tựu trường năm học 2016-2017, Marcel van Miert, chủ tịch điều hành hệ thống Trường Quốc tế Việt - Úc)
Ngữ liệu 3
Những dấu chấm câu

         Có một người chẳng may đánh mất dấu phẩy. Anh ta trở nên sợ những câu phức tạp và chỉ tìm những câu đơn giản. Đằng sau những câu đơn giản là những ý nghĩ đơn giản.
Sau đó, không may, anh ta lại làm mất dấu chấm than. Anh bắt đầu nói khe khẽ, đều đều, không ngữ điệu. Anh không cảm thán, không xuýt xoa. Không gì có thể làm anh ta sung sướng, mừng rỡ hay phẫn nộ nữa cả. Đằng sau đó là sự thờ ơ đối với mọi chuyện.
Kế đó, anh ta đánh mất dấu chấm hỏi và chẳng bao giờ hỏi ai điều gì nữa. Mọi sự kiện xảy ra ở đâu, dù trong vũ trụ hay trên mặt đất hay ngay trong nhà mình mà anh ta không biết, anh ta đánh mất khả năng học hỏi. Đằng sau đó là sự thiếu quan tâm với mọi điều.
Một vài tháng sau, anh ta đánh mất dấu hai chấm. Từ đó anh ta không liệt kê được, không còn giải thích được hành vi của mình nữa. Anh ta đổ lỗi cho tất cả, trừ chính mình.
Cứ mất dần các dấu, cuối cùng anh ta chỉ còn lại dấu ngoặc kép mà thôi. Anh ta không phát biểu được một ý kiến nào của riêng mình nữa, lúc nào cũng chỉ trích dẫn lời của người khác. Thế là anh ta hoàn toàn quên mất cách tư duy.
Cứ như vậy, anh ta đi đến dấu chấm hết.
Thiếu những dấu chấm câu trong một bài văn, có thể bạn chỉ bị điểm thấp vì bài văn của bạn mất ý nghĩa, nhưng mất những dấu chấm câu trong cuộc đời, tuy không ai chấm điểm nhưng cuộc đời bạn cũng mất ý nghĩa như vậy.
Mong bạn hãy giữ gìn những dấu chấm câu của mình, bạn nhé!
Ngữ liệu 4
ĐÊM MƯA
Con về thăm mẹ chiều mưa,
Mới hay nhà dột gió lùa bốn bên.
Hạt mưa sợi thẳng, sợi xiên,
Cứ nhằm vào mẹ những đêm trắng trời.
Con đi đánh giặc một đời,
Mà không che nổi một nơi mẹ nằm.
                                    (Tô Hoàn)
Ngữ liệu 5
“Cuộc chiến” giành vỉa hè: có điều đang băn khoăn
Cuộc chiến dành vỉa hè khởi đầu từ Quận 1 TP Hồ Chí Minh, lan ra Hà Nội và nhanh chóng tỏa rộng ra một số thành phố trong cả nước, đã được dư luận đồng tình và ủng hộ. Bạn đọc Ngoc Hai fb_google@openid.com viết: “Tôi 100% tán thành việc xoá bỏ các hạng mục lấn chiếm vỉa hè, lòng đường. Vì một môi trường văn minh, sạch, đẹp rất cần động thái quyết liệt như vậy!”. Bạn đọc Phu Nguyen ngày 07/03 viết: “Nhân dân luôn đồng hành ủng hộ bác Hải PCT Quận1, chúc bác luôn khỏe mạnh vững chí tiếp tục vì dân phục vụ”.
Báo Dân trí thăm dò ý kiến 13689 bạn đọc cũng nhận được sự đồng tình với kết quả sau. Kết quả bình chọn: Xử lý quyết liệt, liên tục các vi phạm 71.33%, Không cần biện pháp mạnh, tuyên truyền là chính 1.94%, Kết hợp tất cả các cách làm khác nhau 26.73%.
Tuy nhiên, trong “cuộc chiến” giành lại vỉa hè, một vấn đề được nhiều bạn đọc băn khoăn và dành nhiều bình luận như bạn đọc Trần Mỹ Xuyên ngày 08/03 trăn trở: “Không lấy lại vỉa hè thì lấn chiếm lề đường gây mất trật tự, người đi bộ không có lối đi phải đi dưới lòng đường rất nguy hiểm, còn lấy lại được vỉa hè cho người đi bộ thì sẽ làm rất nhiều người sẽ mất việc, mất đi nguồn thu nhập nguồn sống của mọi người vì đây là miếng cơm manh áo cho cả nhà họ. Vì vậy tốt nhất nên khảo sát tạo công ăn việc làm cho những người đó để họ chuyển sang nghề khác để có thu nhập và đồng thời cũng lấy lại được vỉa hè cho người đi bộ”.
                                                   (Trích dantri.com.vn › Diễn đàn ngày 15/3/2017)

3.      Phần làm văn
3.1.           Phần nghị luận xã hội
     - Viết đoạn văn trong khoảng 200-300 chữ trình bày suy nghĩ về vấn đề đặt ra trong phần đọc hiểu
     - Mức độ dạng hỏi vận dụng sáng tạo
     - Nắm vững kĩ năng viết đoạn văn
     - Nắm vững kĩ năng nghị luận xã hội
     - Trình bày theo định hướng
     + Giải thích – bình luận khía cạnh đúng/tích cực/phù hợp và khía cạnh chưa đúng/chưa  phù hợp/chưa tích cực  - bài học nhận thức, hành động (nếu là vấn đề thuộc tư tưởng đạo lí); HOẶC giải thích – biểu hiện – nguyên nhân, hệ quả - giải pháp – bài học nhận thức (nếu là vấn đề thuộc hiện tượng đời sống).
      + Vấn đề trình bày sử dụng thao tác lập luận: giải thích, chứng minh, phân tích, so sánh,..phương pháp lập luận: diễn dịch, qui nạp, tổng – phân – hợp,…
3.2.           Phần nghị luận văn học
3.2.1. Yêu cầu
- Nắm vững quan niệm về chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa, đặc trưng bi kịch, khuynh hướng sử thi, giá trị tác phẩm, phong cách nhà văn, quan niệm về đất nước, chất liệu văn hóa dân gian trong sáng tạo nghệ thuật, chi tiết nghệ thuật, hình tượng nghệ thuật,…
- Xác định các biểu hiện của chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa, đặc trưng bi kịch, khuynh hướng sử thi, giá trị tác phẩm, phong cách nhà văn, quan niệm về đất nước, chất liệu văn hóa dân gian trong sáng tạo nghệ thuật, chi tiết nghệ thuật, hình tượng nghệ thuật,… qua phương diện nội dung/ nghệ thuật/ý nghĩa
- Bình luận (giải thích/chứng minh/phân tích/so sánh,..) các biểu hiện/ý kiến xoay quanh của chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa, đặc trưng bi kịch, khuynh hướng sử thi, giá trị tác phẩm, phong cách nhà văn, quan niệm về đất nước, chất liệu văn hóa dân gian trong sáng tạo nghệ thuật, chi tiết nghệ thuật, hình tượng nghệ thuật,… thông qua hệ thống hình tượng/ chi tiết nghệ thuật/ phương diện nội dung/ nghệ thuật trong các tác phẩm/ý nghĩa tác phẩm, đoạn trích được học của văn học Việt Nam từ sau CMT8, 1945 đến hết thế kỉ XX.
- Vận dụng, đánh giá được nội dung/ý nghĩa trong các sáng tác để bày tỏ suy nghĩ, quan niệm của mình về các vấn đề nhân đạo, cá nhân – cộng đồng,…học tập, rèn luyện,…bài học,….
- Nắm vững kĩ năng văn nghị luận qua các dạng hỏi: cảm nhận/ nhận định/hai ý kiến/ …để xây dựng định hướng tiếp cận phù hợp.
3.2.2. Minh họa
Vấn đề 1 : Quan niệm về Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm trong 9 câu thơ đầu
1. Khái quát chung
- Đất nước là hình tượng thiêng liêng mà quen thuộc, là đề tài muôn thuở và là nguồn cảm hứng bất tận của thi ca, nghệ thuật.
- Viết về đất nước mỗi tác giả đều có một cách cảm nhận riêng. Bài thơ Đất Nước (trích trong trường ca Mặt đường khát vọng) của Nguyễn Khoa Điềm là một trong những bài thơ độc đáo. Đặc biệt ở 9 câu thơ đầu tác giả đã thể hiện sâu sắc quan niệm về đất nước.
2. Quan niệm về Đất Nước trong 9 câu thơ đầu
- Theo tác giả đất nước có từ rất lâu đời. Cụm từ ngày xửa ngày xưa không xác định chính xác thời gian nhưng là sự cảm nhận về sự trường tồn của đất nước.
- Quan niệm của tác giả về cội nguồn đất nước không phải cái gì trừu tượng, xa xôi mà là những gì gần gũi, bình dị, gắn bó với cuộc sống của mỗi người (đất nước có trong những câu chuyện cổ tích mẹ kể, là miếng trầu bà vẫn thường ăn, là búi tóc thân thương của mẹ, là quá trình làm ra hạt gạo, là những vật bình bị như cái kèo, cái cột...). Tóm lại, bất kì một biểu hiện nhỏ bé nào cũng mang dáng hình đất nước, đất nước trở nên thân quen và gắn bó máu thịt với cuộc sống của con người.
- Đất nước còn được sinh ra và nuôi đưỡng trong những truyền thống đạo lí tốt đẹp như: truyền thống đánh giặc, truyền thống lao động, lối sống tình nghĩa, thủy chung...
- Đất nước được định nghĩa và cảm nhận theo cách rất riêng, trong đó việc sử dụng các chất liệu của văn hóa dân gian nhằm gọi tên đất nước được coi là yếu tố cốt lõi. Hình ảnh đất nước được tái hiện qua những câu truyện cổ, những câu ca dao, thần thoại, những phong tục tập quán, những truyền thống quý báu của dân tộc...
            Như vậy theo quan niệm của tác giả, đất nước có từ xa xưa, gắn liền với cuộc sống bình dị của nhân dân và là đất nước của ca dao thần thoại. Đây vừa là tư tưởng cốt lõi trong 9 câu thơ đầu cũng là tư tưởng xuyên suốt bài thơ.
- Về nghệ thuật: + ngôn ngữ thơ thấm đẫm chất liệu và hương sắc của văn hóa dân gian.
                           + giọng điệu thơ tâm tình thủ thỉ như lời kể chuyện cổ tích đưa ta đi tìm cội nguồn đất nước.
3. Đánh giá, liên hệ
- Đây là quan niệm mới mẻ và khá độc đáo về đất nước của Nguyễn Khoa Điềm ( có thể so sánh với quan niệm về đất nước trong thơ văn trung đại và trong các tác phẩm cùng giai đoạn để làm rõ sự độc đáo).
- Qua bài thơ, ta thấy được niềm tự hào về cội nguồn đất nước, từ đó xác định trách nhiệm của bản thân đối với đất nước.

 Vấn đề 2
HỆ THỐNG CHẤT LIỆU VĂN HOÁ DÂN GIAN TRONG ĐOẠN TRÍCH "ĐẤT NƯỚC" CỦA NGUYỄN KHOA ĐIỀM
        Thành công của Nguyễn Khoa Điềm qua đoạn trích Đất Nước  sử dụng chất liệu văn hoá, văn học dân gian  rất đa dạng và đầy sáng tạo: Có thần thoại, truyền thuyết, cổ tích, ca dao, dân ca, tục ngữ. Có phong tục, lối sống, tập quán sinh hoạt, vật dụng quen thuộc như miếng trầu, tóc bới sau đầu, cái kèo, cái cột, hạt gạo xay, giã, giần, sàng, hòn than, con cúi...Cách vận dụng của tác giả thường là chỉ gợi ra bằng một vài chữ của câu ca dao hay một hình ảnh, một chi tiết trong truyền thuyết, cổ tích.

1. Chất liệu văn hoá dân gian trong đoạn trích Đất Nước gắn với ca dao, tục ngữ, ngạn ngữ của văn học dân gian

           Chất liệu văn hóa, văn học dân gian được sử dụng một cách sáng tạo đã tạo nên một không gian nghệ thuật riêng cho đoạn trích, vừa bình dị, gần gũi, hiện thực, lại vừa giàu tưởng tượng, bay bổng. Hơn nữa, có thể nói chất liệu dân gian đã thấm sâu vào tư tưởng và cảm xúc của Nguyễn Khoa Điềm, tạo nên một đặc điểm trong tư duy nghệ thuật của ông trong đoạn thơ. Chỉ nói đến cách sử dụng ca dao, tục ngữ, ngạn ngữ, ta cũng thấy sự tinh tế của tác giả trong cách biểu đạt rất riêng, rất độc đáo. 

            Khi nhà thơ triết lý về cội nguồn sinh ra đất nước cũng là cội nguồn của mỗi gia
đình nên Đất Nước không chỉ tạo bỡi những gì trừu tượng, xa xôi mà được hình thành, tạo bỡi từ tình nghĩa thuỷ chung của cha mẹ qua câu thơ :

Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn

Thì đây là ý thơ cho ta thấy tác giả gợi tả từ cái gốc của chất liệu dân gian, đó là từ trong câu ngạn ngữ dân gian “Gừng cay muối mặn”, chỉ những cay đắng gian nan đã gắn bó tình nghĩa vợ chồng. Và thói quen tâm lí, tình cảm này cũng làm cho ta gợi nhớ  đến câu ca dao hết sức trìu mến:       
Tay bưng chén muối đãi gừng
                        Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau

Và khi nói về tình yêu đôi lứa, câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm cũng hết sức mượt mà, đất nước gắn bó với con người trọn đời: từ thuở ấu thơ đến lúc thưởng thành và biết yêu thương, hẹn hò, nhớ nhung lại gắn với hình ảnh Đất Nước:

                        Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm

Khi xúc cảm nên dòng thơ này, nhà thơ như nhằm muốn tâm sự, trong tình yêu đôi lứa, trong nỗi nhớ nhung da diết của em đã hiện hữu tình Đất Nước. Và đó là nỗi nhớ không định hình được mà câu ca dao tình yêu quen thuộc cất lên rất gần gũi và hết đỗi đời thường:

Khăn thương nhớ ai
                        Khăn rơi xuống đất…

Và khi Nguyễn Khoa Điềm nhằm giải bày Đất Nước trải ra theo chiều dài, chiều rộng của không gian nhưng không gian ấy thật gần gũi, là nơi con chim bay về, nơi con cá móng nước:

                        Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”
                        Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi”

Thì đó là một ý thơ có thể nhận thấy, nhà thơ lấy cảm hứng trọn vẹn từ câu hò Bình- Trị- Thiên quen thuộc, bỡi vì nhà thơ được sinh ra và trưởng thành trên vùng đất giàu giá trị văn hóa, thơ Nguyễn Khoa Điềm thấm đẫm hồn Huế, chính vì thấm nhuần nền văn hóa dân gian nơi chôn nhau cắt rốn nên khi khái quát về Đất Nước, Nguyễn Khoa Điềm cũng đã nghĩ ngay đến câu ca dao bình dân của quê hương, xứ sở mình:

                        Con chim phượng hoàng bay ngang hòn núi bạc
                        Con cá ngư ông móng nước ngoài khơi
                        Gặp nhau đây xin phân tỏ đôi lời
                        Kẻo mai kia con cá về sông vịnh, con chim nọ đổi dời về non xanh

Tự hào về một đất nước có bề dày lịch sử bốn nghìn năm, nên nhà thơ đã hướng về một yếu tố mang tính tâm linh nhưng hết sức truyền thống của người Việt. Bỡi chính nhân dân là những người đã làm nên cái hồn văn hoá và đạo lí truyền thống cao cả cho đất nước, nên nhà thơ tâm sự:

                        Hàng năm ăn đâu làm đâu
                        Cũng biết cúi đầu nhớ  ngày giỗ Tổ

Trong mỗi chúng ta đều biết cội nguồn dân tộc, gốc gác tổ tiên luôn nhắc nhở mọi người Việt rằng: bái vọng tổ tiên, yêu quê cha đất tổ, chính là  những yếu tố góp phần làm nên truyền thống yêu nước của người Việt Nam. Vì thế, bái vọng tổ tiên là điều không thể thiếu, thể hiện sự tôn trọng đầy thiêng liêng của người sống đối với người đã khuất.  Đây cũng là ý thơ mà trong ca dao đã từng nhắc nhở:

                                    Dù ai đi ngược về xuôi
                        Nhớ ngày giỗ Tổ  mùng mười tháng ba

Có thể nói trong kho tàng ca dao dân ca Việt Nam vô cùng phong phú và đa dạng màu sắc của dân tộc, và nhà thơ đã chọn lọc từ những câu ca dao tiêu biểu nhất để nói về các phương diện truyền thống khác nhau của nhân dân. Trong đó câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm đã nhằm diễn tả sự say đắm trong tình yêu nhân văn, nhân bản và cao đẹp nhất:  

Dạy anh biết yêu em từ thuở trong nôi

Là ý tứ từ câu ca dao đầy ngọt ngào, trìu mến, bình dị và hết sức thân quen, nó thường trực hằng ngày mà trong những đôi nam nữ, trai gái yêu nhau không khó để nhận ra:

                                    Yêu em từ thuở trong nôi
                        Em nằm em khóc, anh ngồi anh ru

Có lúc câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm là nhằm nói đến sự quý trọng trong lối sống tình nghĩa, biết nâng niu,  trân trọng những gì có được từ khó nhọc, gian nan:

Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội

Thì đâu đó phản phất trong ca dao cũng đã đúc kết và nhắc nhở mọi người rằng:

                                    Cầm vàng mà lội qua sông
Vàng rơi không tiếc, tiếc công cầm vàng

Ngoài ra, câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm cũng nói đến một phẩm chất nữa  của nhân dân Việt Nam là bền bỉ kiên cường trong chiến đấu dựng và giữ nước, vì đất nước là của nhân dân, do nhân dân làm nên, nên đất nước mãi mãi trường tồn, bất diệt:

                        Biết trồng tre đợi ngày thành gậy
                        Đi trả thù mà không sợ dài lâu

Điều này cũng có nghĩa là trong ý thơ của Nguyễn Khoa Điềm, nhà thơ  đã luyến láy, cảm hứng xuất phát từ cái gốc của câu ca dao đầy hùng hồn và đanh thép:

                                    Thù này ắt hẳn còn lâu
Trồng tre nên gậy, gặp đâu đánh què

Có thể thấy ở tất cả những dòng  thơ trên của Nguyễn Khoa Điềm, nhà thơ đã vận dụng và chuyển ý sáng tạo những câu ca dao, ngạn ngữ thành lời thơ đằm thắm, trữ tình, thiết tha của mình, không ngoài mục đích là ca ngợi nhân dân, ca ngợi bản sắc văn hoá của người Việt Nam.

2. Chất liệu văn hoá dân gian trong Đất Nước còn gắn với những thần thoại, truyền thuyết và truyện cổ tích…

Đặc sắc, độc đáo về nghệ thuật của đoạn trích Đất Nước là sự cảm nhận về đất nước trong một cái nhìn toàn vẹn, tổng hợp từ nhiều bình diện. Vừa  theo mạch cảm xúc thơ, tác giả vừa huy động vào thơ cả một “kho tri thức” phong phú mang tính tổng thể các loại văn học dân gian, đã làm nền tảng vững chắc để làm nổi bật tư tưởng của đoạn trích. Trong lời mở đầu đoạn trích Đất Nước, Nguyễn Khoa Điềm có dòng thơ:

Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa” mẹ thường hay kể

            Lời thơ “ngày xửa ngày xưa” là câu mở đầu thường thấy trong các truyện cổ dân gian, nó mang âm hưởng của những câu chuyện cổ tích, đưa ta về một thuở rất xa xưa.
Sự kì diệu của đất nước trong chống giặc ngoại xâm cũng được nhà thơ gợi lên từ tinh thần nhổ tre đánh giặc Ân thuở nào của Thánh Gióng mà truyền thuyết đã kể lại. Và những hình tượng quen thuộc trong thần thoại, truyền thuyết như “chim, rồng, Lạc Long Quân, Âu Cơ, bọc trăm trứng… ” cùng hội tụ trong trường liên tưởng của nhà thơ đã làm nổi bật ý thơ có tầm khái quát cao: dân tộc ta là “con rồng cháu tiên”, cùng được sinh ra từ bọc trăm trứng nở ra trăm con của cha là Lạc Long Quân và mẹ Âu Cơ.  Vì vậy để gợi nhớ truyền thuyết Con Rồng cháu Tiên, Nguyễn Khoa Điềm lại liên tưởng ngay rằng:

                        Đất là nơi Chim về
                        Nước là nơi Rồng ở
                        Lạc Long Quân và Âu Cơ
                        Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng

Nếu trong mỗi chúng ta, ai đó một khi chưa hiểu hết về đất nước với những khái niệm trừu tượng như lãnh thổ, chủ quyền, thì chúng ta sẽ cảm nhận được đất nước là một cái gì đó rất gần gũi, quen thuộc qua những câu chuyện thần thoại, truyền thuyết, truyện cổ tích mẹ thường kể từ thuở còn nằm trong nôi.

3. Chất liệu văn hoá dân gian còn gắn với phong tục tập quán của người Việt Nam

Đất nước còn được hình thành từ những truyền thống cao đẹp như truyền thống yêu nước, anh hùng, lao động, văn hóa. Trước hết là truyền thống văn hóa với phong tục ngàn đời của cha ông ta đúc kết lại. Vì thế, khi Nguyễn Khoa Điềm tâm sự:

                        Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn

Đó là phong tục “miếng trầu là đầu câu chuyện” có từ thuở các vua Hùng dựng nước. Hay gợi nhớ câu chuyện “Trầu cau” đầy nghĩa tình vừa mang yếu tố truyền thuyết lại vừa đậm yếu tố đời thường cũng là gợi nhớ tục ăn trầu của người Việt.

            Hay  khi nhà thơ miêu tả cái dáng dấp thấp thoáng của người mẹ hiện lên trong vẻ đẹp đầy nữ tính của người phụ nữ Việt Nam, nhà thơ đã viết:

Tóc mẹ thì bới sau đầu

            Tục búi tóc thành cuộn sau gáy của người dân Việt, đó là tập quán thể hiện quan niệm “cái răng cái tóc là góc con người” của người Việt cổ xưa mà đã một thời tô điểm vẻ đẹp bên ngoài của người phụ nữ Việt Nam.

Nhà thơ đã đưa đến cho người đọc quan niệm hình thành đất nước, đất nước chúng ta được hình thành  từ trong cộng đồng của những người có chung kiểu ngôn ngữ nôm na dễ hiểu như thói quen đặt tên con bằng tên các đồ vật cho dễ nuôi của người dân lao động nước ta:

Cái kèo, cái cột thành tên

Với miếng trầu dung dị hiện lên trên cái miệng móm mém nhai trầu của bà, mái tóc bới hiền hòa của mẹ, cách gọi tên “cái kèo, cái cột” dân dã. Tất cả những điều tưởng chừng như bình thường ấy đã trở thành nếp sống, thành phẩm chất tốt đẹp, thành thuần phong mĩ tục đậm đà bản sắc mang tính văn hoá Việt Nam.

Có thể nói từ những hệ thống như trên,  chúng ta thấy Nguyễn Khoa Điềm đã sử dụng chất liệu văn hoá, văn học dân gian một cách sáng tạo. Không trích dẫn nguyên văn câu ca dao, tục ngữ, dân ca, không kể dài dòng các truyền thuyết, truyện cổ tích, các phong tục tập quán, mà nhà thơ chỉ bắt lấy rất tinh tế cái hồn của chất liệu dân gian để gợi liên tưởng, gợi suy ngẫm cho người đọc. Cho nên khi tiếp xúc tạo cho người đọc cảm giác vừa quen vừa lạ. Cảm giác “quen” vì từ thuở ấu thơ mỗi người trong chúng ta, ai cũng đã sống trong không khí văn hoá dân gian, cho nên trong mỗi người Việt Nam hết sức nhạy cảm với ca dao dân ca, cổ tích, truyền thuyết hay các phong tục tập quán…Chỉ cần một lay động nhỏ, là tâm hồn người Việt Nam đã rung lên bao hồi ức. Còn cảm giác “lạ” là khi đọc những dòng thơ này là do từ những chất liệu văn hoá, văn học dân gian rất gần gũi ấy, nhà thơ đã thu nạp được nhiều ý tưởng rất thơ, rất êm dịu và cũng rất bất ngờ đem lại sức hấp dẫn cho đoạn thơ.

Đến đây ta có thể nhận ra rằng: vẻ đẹp của chất liệu văn hoá dân gian là vô cùng quan trọng đối với văn học viết nói riêng và văn học nghệ thuật nói chung. Và cũng chính những chất liệu văn hóa ấy khi được cảm nhận sâu sắc và vận dụng sáng tạo vào thơ sẽ tạo nên những khoảng âm vang rất lớn để thơ ca trường tồn và song hành cùng thời gian, chính chiều sâu của những chất liệu văn hóa dân gian đã tạo nên nét độc đáo riêng của đoạn trích Đất Nước của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm.

Vấn đề 3
 Hình tượng cây xà nu
* Vị trí xuất hiện : nhan đề, đầu và cuối tác phẩm, xuất hiện trong sự đối chiếu so sánh với các nhân vật ở trong truyện.
* Nghĩa thực : Đây là một loài cây có thật ở vùng đất Tây Nguyên.
* Nghĩa biểu tượng :
– Cây xà nu gắn bó với cuộc sống con người Tây Nguyên:
+ Cây xà nu có mặt trong đời sống hằng ngày của người dân làng Xôman.
+ Cây xà nu tham dự vào những sự kiện trọng đại của dân làng Xôman.
+ Cây xà nu gắn với cuộc sống của người dân làng Xôman đến mức nó đã thấm sâu vào nếp suy nghĩ và cảm xúc của họ, cụ Mết nói về cây xà nu với tất cả tình cảm yêu thương, gần gũi xen lẫn tự hào “không có gì mạnh bằng cây xà nu đất ta”. Cây xà nu đã trở thành một phần máu thịt trong đời sống vật chất và tinh thần của mảnh đất này.
– Cây xà nu tượng trưng cho số phận và phẩm chất của con người Tây Nguyên trong chiến tranh cách mạng.
+ Thương tích mà rừng xà nu phải gánh chịu do đại bác của kẻ thù tượng trưng cho những mất mát, đau thương vô bờ mà dân làng Xôman nói riêng (anh Xút, bà Nhan, mẹ con Mai…) và đồng bào Tây Nguyên nói chung đã phải trải qua trong cuộc chiến đấu.
+ Đặc tính ham ánh sáng của cây xà nu tượng trưng cho niềm khát khao tự do, lòng tin vào lý tưởng cách mạng của người dân Tây Nguyên, của đồng bào miền Nam trong cuộc kháng chiến.
+ Khả năng sinh sôi mãnh liệt của cây xà nu gợi nghĩ đến sự tiếp nối của nhiều thế hệ người dân Tây Nguyên (cụ Mết, Tnú, Mai, Dít, Heng) đoàn kết bên nhau trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ.
+ Sự tồn tại kỳ diệu của rừng xà nu qua những hành động hủy diệt của kẻ thù tượng trưng cho sức sống bất diệt, sự bất khuất, kiên cường và sự vươn lên mạnh mẽ của con người Tây Nguyên trong cuộc chiến mất còn với kẻ thù.
– Nghệ thuật miêu tả:
+ Kết hợp miêu tả cụ thể lẫn khái quát, khi dựng lên hình ảnh cả rừng xà nu, khi đặc tả cận cảnh một số cây.
+ Phối hợp cảm nhận nhiều giác quan trong việc miêu tả những cây xà nu với vóc dáng tràn đầy sức lực, tràn trề mùi nhựa thơm, ngời xanh giữa ánh nắng.
+ Hình tượng cây xà nu vừa hiện thực lại vừa mang đậm ý nghĩa biểu tượng. Miêu tả cây xà nu trong sự so sánh đối chiếu thường xuyên với con người. Các hình thức ẩn dụ, nhân hóa, tượng trưng đều được vận dụng nhằm thể hiện sống động, hùng vĩ, khoáng đạt của thiên nhiên đồng thời gợi ra nhiều suy tưởng sâu xa về con người, về đời sống.
+ Hình ảnh cây xà nu xuất hiện ở đầu tác phẩm rồi kết thúc tác phẩm lại hiện ra cánh rừng xà nu bạt ngàn. Đây là một kết cấu vòng tròn. Kết cấu ấy cho phép ta nghĩ : cây xà nu không chỉ là tượng trưng cho một làng Xô Man nhỏ bé hay cho một vùng núi rừng Tây Nguyên. Có thể đó còn là biểu tượng của cả miền Nam, của cả dân tộc Việt Nam trong những tháng năm chống đế quốc Mĩ.
Vấn đề 4
 Hình tượng nhân vật Tnú
– Tnú là người có tính cách trung thực, gan góc, dũng cảm, mưu trí:
+ Giặc giết bà Nhan, anh Xút nhưng Tnú (lúc bấy giờ còn nhỏ) không sợ. Tnú vẫn cùng Mai xung phong vào rừng nuôi giấu cán bộ.
+ Học chữ thua Mai, Tnú đập vỡ bảng, lấy đá đập vào đầu đến chảy máu.
+ Khi đi liên lạc không đi đường mòn mà “xé rừng mà đi”, không lội chỗ nước êm mà “lựa chỗ thác mạnh vượt băng băng như con cá kình”. Bởi theo Tnú những chỗ nguy hiểm giặc “không ngờ” đến.
+ Bị giặc phục kích bắt, bị tra tấn dã man nhưng Tnú quyết không khai. Khi bọn giặc kéo về làng, bắt Tnú khai cộng sản ở đâu anh đặt tay lên bụng dõng dạc nói “cộng sản ở đây này”.
– Tnú là người có tính kỷ luật cao, tuyệt đối trung thành với cách mạng
+ Tham gia lực lượng vũ trang, nhớ nhà, nhớ quê hương nhưng khi được phép của cấp trên mới về thăm.
+ Tính kỉ luật cao trong mối quan hệ với cách mạng biểu hiện thành lòng trung thành tuyệt đối: khi bị kẻ thù đốt mười đầu ngón tay, ngọn lửa như thiêu đốt gan ruột nhưng Tnú không kêu nửa lời, anh luôn tâm niệm lời dạy của anh Quyết : “người cộng sản không thèm kêu van”.
– Một trái tim yêu thương và sục sôi căm giận
+ Tnú là một người sống rất nghĩa tình : Tnú đã tay không xông ra cứu vợ con. Động lực ghê gớm ấy chỉ có thể được khơi nguồn từ trái tim cháy bỏng ngọn lửa yêu thương và ngọn lửa căm thù. Tnú là con người tình nghĩa với buôn làng: anh lớn lên trong sự đùm bọc yêu thương của người dân làng Xôman.
+ Lòng căm thù ở Tnú mang đậm chất Tây Nguyên: Tnú mang trong tim ba mối thù : Thù của bản thân; Thù của gia đình; Thù của buôn làng
– Ở Tnú, hình tượng đôi bàn tay mang tính cách, dấu ấn cuộc đời
+ Khi lành lặn : đó là đôi bàn tay trung thực, nghĩa tình (bàn tay cầm phấn viết chữ anh Quyết dạy cho ; bàn tay cầm đá đập vào đầu mình để tự trừng phạt vì học hay quên chữ …
+ Khi bị thương : đó là chứng tích của một giai đoạn đau thương, của thời điểm lòng căm hận sôi trào “Anh không cảm thấy lửa ở mười đầu ngón tay nữa. Anh nghe lửa cháy trong lồng ngực, cháy trong bụng”. Đó cũng là bàn tay trừng phạt, bàn tay quả báo khi chính đôi bàn tay tàn tật ấy đã bóp chết tên chỉ huy đồn giặc trong một trận chiến đấu của quân giải phóng.
– Hình tượng Tnú điển hình cho con đường đấu tranh đến với cách mạng của người dân Tây Nguyên làm sáng tỏ chân lí của thời đại đánh Mĩ : “chúng nó đã cầm súng mình phải cầm giáo”.
+ Bi kịch của Tnú khi chưa cầm vũ khí là bi kịch của người dân STrá khi chưa giác ngộ chân lý (bà Nhan, anh Xút). Tnú là người có thừa sức mạnh cá nhân nhưng anh vẫn thất bại đau đớn khi không có vũ khí. Với bàn tay không có vũ khí trước kẻ thù hung bạo anh đã không bảo vệ được vợ con và bản thân.
+ Tnú chỉ được cứu khi dân làng Xôman đã cầm vũ khí đứng lên. Cuộc đời bi tráng của Tnú là sự chứng minh cho chân lí : phải dùng bạo lực cách mạng để tiêu diệt bạo lực phản cách mạng.
+ Con đường đấu tranh của Tnú từ tự phát đến tự giác cũng là con đường đấu tranh đến với cách mạng của làng Xôman nói riêng và người dân Tây Nguyên nói chung.
Tóm lại, câu chuyện về cuộc đời và con đường đi lên của Tnú mang ý nghĩa tiêu biểu cho số phận và con đường của các dân tộc Tây Nguyên trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ. Vẻ đẹp và sức mạnh của Tnú là sự kết tinh vẻ đẹp và sức mạnh của con người Tây Nguyên nói riêng và người Việt Nam nói chung trong thời đại đấu tranh cách mạng.
Vấn đề 5
Chi tiết giọt nước mắt
1. Khái quát về chi tiết giọt nước mắt
Trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ, hình ảnh giọt nước mắt nhiều lần xuất hiện gắn liền với tình cảnh éo le của hai nhân vật Mị và A Phủ:
- Khi mới bị bắt về làm dâu gạt nợ của nhà thống lí Pá Tra, có tới hàng mấy tháng, đêm nào Mị cũng khóc.
- Mị bỏ trốn về nhà, hai tròng mắt còn đỏ hoe…nức nở. Nghe lời của cha, Mị chỉ bưng mặt khóc.
- Đêm mùa xuân, Mị bị A Sử trí đứng vào cột. Nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ, không biết lau đi được.
- Đêm mùa đông, Mị trở dậy thổi lửa. Mị lé mắt trông sang, thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại.
* Ý nghĩa nội dung và nghệ thuật.
- Nội dung
+ Phản ánh tình cảnh éo le, ngang trái, số phận cùng khổ, bất hạnh của Mị và A Phủ.
+ Thể hiện sâu sắc sức sống tiềm tàng, tinh thần phản kháng, khát vọng sống của các nhân vật.
+  Góp phần thể hiện giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc của tác phẩm
- Nghệ thuật
  Là những chi tiết quan trọng thúc đẩy sự phát triển của cốt truyện, khắc họa sắc nét thế giới nội tâm, diễn biến tâm lí của nhân vật.
2. Giọt nước mắt của A Phủ
- Chi tiết Mị nhìn thấy "dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má" của A Phủ là một chi tiết rất quan trọng trong mạch cốt truyện và đánh dấu bước chuyển biến trong tâm lí, hành động của nhân vật Mị. 
* Hoàn cảnh:
- Bối cảnh không - thời gian: "Lúc ấy đã khuya. Trong nhà đã ngủ yên thì Mị trở dậy thổi lửa. Ngọn lửa bập bùng sáng lên".
- Hoàn cảnh của A Phủ: bị bắt trói, bị đánh đập, hành hạ tàn nhẫn. A Phủ lâm vào cảnh tuyệt vọng và bị đẩy đến gần cái chết "chỉ đêm mai là chết ... chết đau, chết đói, chết rét, phải chết". 
- Hoàn cảnh của Mị: Là người phụ nữ nhân hậu, giàu yêu thương nhưng đã bị trà đạp tàn nhẫn đến gần như lạnh lùng, vô cảm với nỗi đau đồng loại (trước đó, Mị đã nhiều đêm dậy thổi lửa, chứng kiến A Phủ bị trói nhưng chẳng hề quan tâm). Những dòng nước mắt của A Phủ đã thức dậy trong cô những gì tốt đẹp nhất.
* Ý nghĩa của chi tiết với tâm lí nhân vật Mị:
- Chi tiết này đánh dấu bước chuyến biến quan trọng trong tâm lí Mị. 
 + Giọt nước mắt và tình cảnh tuyệt vọng của A Phủ thức dậy trong Mị hình ảnh của chính mình "đêm năm trước". Cô thương xót cho thân phận mình.
 + Từ nỗi thương thân, cô thương cho người đàn ông bất hạnh kia chỉ ngày mai là chết. Từ lòng thương ấy, Mị nhận ra tất cả sự bất công, tàn ác của nhà Thống lí, của tầng lớp thống trị. Nghĩ thế, trong Mị thôi thúc hành động giải phóng cho A Phủ.
 + Mị nghĩ đến tình cảnh của mình sẽ bị hành hạ sau khi giải thoát cho A Phủ nhưng "làm sao Mị cũng không thấy sợ". Cô quyết tâm hành động, cắt dây trói cứu A Phủ và giải phóng cho chính cuộc đời mình.
- Chi tiết này cho thấy nghệ thuật phân tích tâm lí nhân vật tài tình của Tô Hoài, tấm lòng yêu thương, trân trọng của nhà văn khi phát hiện ra những phẩm chất cao đẹp ẩn sâu trong đáy hồn của những con người đau khổ, bất hạnh.
Vấn đề 6
Nhân vật A Phủ trong Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài.
I. Mở bài:
– Giới thiệu tác giả, tác phẩm.
– Giới thiệu nhân vật.

II. Thân bài
1. Xuất thân của A Phủ
– Khốn khó, mồ côi cha mẹ, sống tự do, khỏe mạnh, siêng năng, giàu bản lĩnh, nhưng không kiêu ngạo, là “con trâu tốt” của bản mường nhưng vì nghèo nên không lấy được vợ. Trích câu dân làng nói về A Phủ.
– Là con người không bao giờ nhùn bước trước cường quyền, bạo chúa. A Phủ biết A Sử là con thống lí nhưng vẫn ra tay đánh, vẫn phải trừng trị kẻ xấu, kẻ gây rối.
2. Trải qua những ngày tháng đọa đày cùng cực trong nhà Thống Lý
– Sau việc đánh con quan làng, A Phủ đã nhận lấy những trận đòn kinh người của nhà Thống Lý, A Phủ dù bị đánh đập nhưng không hề kêu van xin tha đến nửa lời. Anh rất cứng đầu, mạnh bạo và không chịu khuất phục.
– Bị phạt vạ, A Phủ thành người ở không công quần quật với công việc: “đốt rừng, cày nương, cuốc mương, săn bò tót, bẫy hổ, chăn bò, chăn ngựa, quanh năm một thân một mình bôn ba rong ruổi ngoài gò ngoài rừng”. Nhưng anh không hề nói lại nửa lời mà chấp nhận vì bọn chúa đất đày đọa, áp bức nhân dân quá trơ trẽn. A Phủ chấp nahanj cũng vì chính A Phủ cũng không có gia đình, có nhà, hơn nữa, anh đã gây lên tội thì cũng phải chịu phạt.
– Khi hổ vồ mất bò, A Phủ nhất quyết cãi lại lời Thống Lý, quyết tâm đi bắt hổ. Nhưng cuối cùng anh đành phải tự tay đóng cọc để người ta trói mình. Đau khổ cùng cực đến nỗi khi Mị nhìn sang thì thấy “một dòng nước lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đem lại”, “thở phè từng hơi, không biết mê hay tỉnh”.
3. Nổi bật ở A Phủ là một sức phản kháng mãnh liệt:
– Điều này thống nhất với bản tính gan góc từ nhỏ: cả nhà chết hết vì bệnh dịch, làng chết và đói nên “người làng đói bụng bắt A Phủ đem xuống bán đổi lấy thóc của người Thái dưới cánh đồng. A Phủ mới mười tuổi, nhưng A Phủ ngang bướng, không chịu ở dưới cánh đồng thấp. A Phủ trốn lên núi, lưu lạc ở Hồng Ngài”.
– Trong đêm tình mùa xuân, trước việc gây chuyện của đám trai làng do A Sử cầm đầu, A Phủ đã gan góc ” vung tay ném con quay rất to vào mặt A Sử”, “xộc tới, nắm cái vòng cổ, kéo đập đầu xuống đất, xé vai áo, đánh tới tấp”. Hành động này thật dũng cảm, dẫu chỉ là bộc phát. A Phủ thể hiện mình không chịu nhục trước thế lực cường quyền.
– Đặc biệt khi được Mị cởi trói, mặc dù rất đau đớn đến “khụy xuống, không bước nổi”, trong người không còn sức lực do phải chịu cực hình, trói đứng và nhịn đói, nhưng anh đã “quật sức vùng lên chạy”; cùng với Mị tự giải thoát khỏi nhà thống lý. Khát vọng, sức sống từ người phụ nữa cùng cảnh ngộ đã thổi bùng trở lại sức sống và khát vọng tự do nơi người con trai mang bản chất tốt đẹp này.
4. Đánh giá
– Nếu Mị là kiểu nhân vật tâm lí thì A Phủ lại là nhân vật hành động táo bạo, quyết liệt.
– Khi miêu tả A Phủ, nhà văn phối hợp vừa tả vừa kể, nhấn mạnh các chi tiết cụ thể, ấn tượng để khắc họa những đặc điểm, tính cách nhân vật.
– Cùng với Mị, A Phủ đã góp phần hoàn thiện chân dung con người miền núi Tây Bắc: Số phận đâu thương nhưng giàu sức sống, tình cảm và khát vọng.
– Người đọc cũng mong có một kết thúc tốt đẹp đến với A Phủ và Mị. Bởi họ là những con người không chịu khuất phục trước cường quyền gian ác. Nếu chị Dậu trong “Tắt Đèn” của Ngô Tất Tố chạy ra khỏi nhà lí thống trong đêm tối, cái đêm đen cũng đen như cuộc đời của chị, người ta mong chị sẽ gặp được ánh sáng soi rọi của cách mạng, thì ở đây, người đọc cũng mong A Phủ và Mị chạy thoát khỏi nhà lí thống, gặp được ánh sáng của Cách mạng ở cuối đường.
III. Kết bài
Khi miêu tả nhân vật A Phủ, nhà văn miêu tả qua những hành động khi bị đánh đập, để thấy được sức sống kiên cường của anh. Số phận của nhân vật A Phủ cũng giống như số phận của bao người dân miền núi khác, như Mị. Họ đã phải luôn đấu tranh giành lại hạnh phúc, họ đã phải trải qua bao tủi cực, cay đắng. Nhưng họ đã đấu tranh để tự giải phóng bằng sức mạnh quật khởi của chính mình.

Vấn đề 7: Cảm nhận về chi tiết tiếng sáo trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ -Tô Hoài.
Gợi ý:
1. Mở bài:
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm
- Dẫn dắt đến chi tiết tiếng sáo
2. Thân bài:
a. Khái quát về tác phẩm (hoàn cảnh ra đời, vị trí, xuất xứ tác phẩm)
- Vai trò của chi tiết trong tác phẩm: Chi tiết tiếng sáo xuất hiện nhiều lần trong tác phẩm góp phần quan trọng thể hiện tâm lí nhân vật, tư tưởng tác phẩm và điển hình cho nghệ thuật của Tô Hoài.
b. Cảm nhận về chi tiết:
*. Nêu chi tiết:
- Mị thổi sáo giỏi. Mị uốn chiếc lá trên môi,thổi lá cũng hay như thổi sáo.Có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm thổi sáo đi theo Mị.
- Hồng Ngài vào xuân.  Ngoài đầu núi lấp ló đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi.
 Mị nghe tiếng sáo vọng lại, thiết thao bối hồi. Mị ngồi nhẩm theo bài hát của người đang thổi:
“Mày có con trai con gái rồi
Mày đi làm nương
Tao không có con trai con gái
Tao đi tìm người yêu
- Và đến lúc say, Mỵ nghĩ đến tình cảnh của mình. “ Nhớ lại chỏ thấy nước mắt ứa ra . Mà tiếng sáo gọi bạn yêu vẫn lơ lửng bay ngoài đường”:
“Anh ném pao em không bắt
Em không yêu, quả pao rơi rồi”
- Đến khi bị trói. Mị vẫn nghe tiếng sao đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi:
Em không yêu, quả pao rơi rồi.
 Em yêu người nào, em bắt pao nào…”
Mị vùng bước đi. Nhưng tay chân không cựa được. Mị không nghe tiếng sáo nữa”.
*. Ý nghĩa:
 - Tiếng sáo mở ra một không gian xa xôi của núi rừng tây bắc. Tiếng sáo biểu hiện cho vẻ đẹp của phong tục, nét đẹp văn hóa người dân miền núi khi mùa xuân về.
- Tiếng sáo đại diện cho tài năng của con người
- Là biểu tượng cho tiếng gọi cuộc sống, tình yêu; nó đã lay gọi, khơi gợi lòng yêu đời, yêu cuộc sống tự do trong Mĩ
- Tiếng sáo tác động và góp phần thể hiện diễn biến tâm lí của Mị, là động lực thúc đẩy Mị đi đến hành động chuẩn bị đi chơi xuân: tiếng sáo kêu gợi quá khứ tươi đẹp ,ước mơ về cuộc sống hạnh phúc,đồng thời tiếng sáo là chất xúc tác trực tiếp khơi gợi sức sống tiềm tàng của Mị.
- Thể hiện tư tưởng của tác phẩm: sức sống con người cho dù bị giẫm đạp, trói buộc nhưng vẫn luôn âm ỉ chờ cơ hội bùng lên.
* Đánh giá:
-  Tiếng sáo là một chi tiết nghệ thuật đặc sắc, được nhắc lại nhiều lần trong tác phẩm, được miêu tả từ gần đến xa, được tái hiện qua nhiều cung bậc: lấp ló đầu núi, văng vẳng ngoài đường, rập rờn trong đầu Mị.
- Tiếng sáo được miêu tả với ngôn ngữ giàu hình ảnh.
- Chi tiết tiếng sáo góp phần thể hiện giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm. Nếu tiếng chân ngựa đạp vào vách là sự lên tiếng của hiện thực phũ phàng thì tiếng sao lại là hiện thân của những ước mơ, hoài niệm.
- Tiếng sáo là âm thanh của khát vọng sống, tự do trong mỗi người. Dù trong hoàn cảnh nào,  hãy luôn giữ khát vọng sống, khát vọng tự do và hạnh phúc.
3. Kết bài:
Khẳng định vai trò của chi tiết tiếng sáo trong tác phẩm.

Vấn đề 8: 1. Đối thoại, xung đột giữa Hồn Trương Ba với xác hàng thịt.
Gợi ý
1.1. Đối thoại trong kịch:
- Đối thoại trong kịch thể hiện những chức năng cơ bản như dẫn chuyện - kể chuyện; bộc lộ tư tưởng chủ đề; thể hiện tính cách nhân vật; diễn tả chiều sâu nội tâm nhân vật; dẫn dắt xung đột kịch vận động phát triển.
- Đối thoại giữa Hồn Trương Ba và xác anh hàng thịt (gọi ngắn gọn đối thoại giữa Hồn và Xác) thực chất là xung đột giữa bên trong và bên ngoài, giữa ý thức trong sáng, thanh cao, lý tưởng với những đòi hỏi của nhu cầu bản năng trong mỗi con người.
1.2. Về nội dung của đối thoại.
* Hồn Trương Ba đau khổ, bất lực trước sự lấn át của thân xác
          - Hồn Trương Ba mong muốn thoát khỏi thân xác: đã chán chỗ ở, cái thân thể kềnh càng, đã bắt đầu sợ và chỉ muốn xa thân xác thô lỗ, phàm tục
          - Hồn Trương Ba phủ nhận vai trò tồn tại của thân xác: là thứ phàm tục không có tiếng nói, là cõi âm u và đui mù, chỉ là cái vỏ bề ngoài, không có ý nghĩa và càng không có tư tưởng, cảm xúc.
          - Hồn cho rằng mình có đời sống nguyên vẹn, thẳng thắn, trong sạch.
          - Mặc dù đã dùng mọi thứ lí lẽ nhưng Hồn Trương Ba không thể chối bỏ được sự tồn tại của thân xác, thậm chí Hồn Trương Ba còn biết rõ sức mạnh của  thân xác. Hồn Trương Ba chống trả một cách bất lực, bị yếu thế trước những lí lẽ đê tiện của xác (lưu ý thái độ, cử chỉ, điệu bộ, cách xưng hô của Hồn Trương Ba với xác anh hàng thịt) và cuối cùng phải chấp nhận nhập vào cái xác mà mình căm ghét.
* Xác anh hàng thịt đã thắng thế trong cuộc đối thoại.
          - Xác khẳng định là Hồn không tách rời khỏi xác, cả hai hòa với nhau làm một.
- Xác hàng thịt còn ý thức được sức mạnh của mình. Xác còn cho rằng tiếng nói chứa đựng sự thật và lí lẽ của mình cần được Hồn thừa nhận.
          - Thậm chí, xác còn mong muốn được đối xử công bằng, được tôn trọng.
          - Trong cuộc đối thoại, xác mỗi lúc một lấn lướt, dồn đuổi Hồn Trương Ba. Xác còn thông minh, mềm dẻo trong thuyết phục, tranh luận; khi thì sử dụng lí lẽ, lúc lại đưa ra bằng chứng; khi thì cao giọng thách thức, lúc lại buồn dầu thanh minh; khi thì đắc ý, lúc lại vuốt ve xoa dịu và an ủi,… Như thế xác đã chứng tỏ được ưu thế, để kết thúc màn đối thoại, cái Hồn ương bướng lại tìm chỗ trú thân ở xác hàng thịt.
1.3. Đánh giá
- Cuộc đối thoại giữa Hồn Trương Ba và xác hàng thịt thể hiện tính kịch: dai dẳng, quyết liệt…
- Nội dung của đối thoại xoay quanh một vấn đề giàu chất triết lí giữa hai mặt tồn tại trong một con người, từ đó nói lên khát vọng hướng thiện của con người và tầm quan trọng của việc tự ý thức, tự chiến thắng bản thân.
- Ngôn ngữ, điệu bộ, cử chỉ của nhân vật phù hợp với tính cách và cảnh ngộ riêng.
                                                                                    Nhóm chuyên môn Ngữ Văn


Chia sẻ bài viết ^^
Other post

All comments [ 0 ]


Your comments