HƯỚNG DẪN ÔN TẬP BÀI THƯƠNG VỢ (TRẦN TẾ XƯƠNG)
Thứ Hai, 5 tháng 12, 2016
I. KIẾN THỨC CƠ BẢN
a. Tác giả
- Trần Tế
Xương (1870 - 1907) thường gọi là Tú Xương.
- Quê làng Vị Xuyên -
Mĩ Lộc - Nam Định.
- Tú Xương sống 37
năm chỉ đỗ tú tài nhưng sự nghiệp thơ ca của ông trở thành bất tử.
- Sáng tác của Tú
Xương gồm 2 mảng: trữ tình và trào phúng.
b. Đề tài, vị trí bài thơ
“Thương vợ” là một trong những bài
thơ hay nhất và cảm động nhất của Tú Xương.
c. Hoàn cảnh ra đời:
bài thơ ra đời xuất phát từ tình
cảm yêu thương quý trọng của Tú Xương dành cho vợ.
2. Nội dung và nghệ thuật:
a. Hai câu đề
Kể về công việc làm ăn và gánh
nặng mà bà Tú phải đảm đang:
- Quanh năm :
Cách tính thời gian vất vả, triền miên, hết năm này sang năm khác.
- Mom sông : Địa điểm làm
ăn cheo leo, nguy hiểm, không ổn định
- Nuôi đủ 5 con… 1 chồng :
Bà Tú nuôi 6 miệng ăn. Ông Tú tự coi mình như một thứ con riêng đặc biệt (Một
mình ông = 5 người khác).
=> Lòng biết ơn sâu sắc công
lao của bà Tú đối với cha con ông Tú. Lòng vị tha cao quí của bà càng thêm sáng
tỏ.
b. Hai câu thực
Đặc tả cảnh làm ăn vất vả để mưu
sinh của bà Tú.
- Lặn lội thân cò: Vất vả, đơn
chiếc khi kiếm ăn.
- Quãng vắng, đò đông: Cảnh
kiếm sống chơi vơi, nguy hiểm.
- Eo sèo:
Chen lấn, xô đẩy, vì miếng cơm manh áo của chồng con mà đành phải rơi vào cảnh
liều lĩnh cau có, giành giật.
- Nghệ thuật đảo
ngữ: Sự vất vả, sự hi sinh lớn lao của bà Tú đối với gia đình
=> Nói bằng tất cả nỗi chua
xót. Thấm đẫm tình yêu thương.
c. Hai câu luận
- Một duyên / năm
nắng
- Hai nợ / mười mưa
- Âu đành phận /
dám quản công
=> Câu thơ như một tiếng thở
dài cam chịu. Cách sử dụng phép đối, thành ngữ, từ ngữ dân gian, bộc lộ kiếp
nặng nề nhưng rất mực hi sinh của bà Tú.
- Dùng số từ tăng tiến: 1-2-5-10: Đức hi
sinh thầm lặng cao quí. Bà Tú hiện thân của một cuộc đời vất vả, lận đận. Ở bà
hội tụ tất cả đức tính tần tảo đảm đang, nhẫn nại. Tất cả hi sinh cho chồng
con.
=> Ông Tú hiểu được điều đó có
nghĩa là vô cùng thương bà Tú. Nhân cách của Tú Xương càng thêm sáng
tỏ.
d. Hai câu kết
- Tú Xương tự chửi mình vì cái tội
làm chồng mà hờ hững, để vợ phải vất vả lặn lội kiếm ăn. Ông vừa cay đắng vừa
phẫn nộ.
- Tú Xương chửi cả xã hội, chửi cái
thói đời đểu cáng, bạc bẽo để cho bà Tú vất vả mà vẫn nghèo đói.
- Từ tấm
lòng Thương vợ đến thái độ đối với xã hội
=> Nhân cách của Tú
Xương ân tình, nhân ái, chân thật.
đ. Nghệ thuật
- Vận dụng sáng tạo
ngôn ngữ và thi liệu văn hóa dân gian.
- Kết hợp nhuần nhuyễn
giữa trữ tình và trào phúng.
3. Tổng kết
Chân dung người vợ trong cảm xúc
yêu thương cùng tiếng cười tự trào và một cách nhìn về thân phận người phụ nữ
của Tú Xương.
II. MỘT SỐ LƯU Ý KHI LÀM
BÀI:
Những nội dung kiến thức cơ bản cần lưu ý.
1. Giới thiệu tác giả, tác phẩm (thương vợ ); Tìm hiểu thêm trong
giáo trình và sách giáo khoa lớp 11 nâng cao tập 1 trang 66. Vấn đề cần nghị
luận: cảm hứng nhân đạo trong tác phẩm:
thương vợ (Trần Tế Xương)
2. Nội
dung khái quát:
a.
Khái quát:
- Khái
quát về xuất xứ, hoàn cảnh sáng tác của tác phẩm ( thương vợ );
Giải thích
- Nhân
đạo là đạo lí hướng tới con người, vì con người, là tình thương giữa người với
người.
- Nhân
đạo là một trong hai cảm hứng lớn của văn học tạo nên giá trị của một tác phẩm
văn chương chân chính.
Biểu hiện của cảm hứng nhân đạo:
+ Cảm
thông với những số phận bất hạnh.
+ Trân
trọng và ngợi ca những phẩm chất tốt đẹp của con người.
+ Phê
phán, tố cáo những thế lực chà đạp lên quyền sống của con người.
+ Đồng
tình với những ước mơ, khát vọng chính đáng của con người
- Cảm hứng nhân đạo cùng với cảm hứng yêu nước
là hai sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ nền văn học Việt Nam.
Nội dung cụ thể:
1. Cảm hứng nhân đạo trong bài thơ
( thương vợ) Trần Tế Xương, biểu hiện
qua các khía cạnh;
1.1. Nhân đạo trước
hết là niềm cảm thương chân thành trước nỗi vất vả của bà Tú .
(Phân tích câu 1,3,4, chú ý khai thác các biện pháp nghệ thuật:Lời
kể,đảo ngữ,từ láy,vận dụng sáng tạo hình ảnh VHDG)
+ Câu đầu nói về thời gian và không gian
làm việc của bà Tú. Bà phải làm việc vất vả “quanh năm”, suốt bốn mùa không
ngơi nghỉ, cứ hết ngày này sang ngày khác, hết năm này qua năm khác, không kể
nắng mưa. Bà làm việc vất vả quanh năm suốt tháng như thế ở “mom sông”, nơi có
mỏm đất nhô ra ven bờ sông chênh vênh, nguy hiểm. Bà phải cật lực buôn bán ở
một nơi nguy hiểm như thế để đảm bảo kinh tế gia đình, “nuôi đủ” chồng và con.
+ Hai câu thơ 3,4 có cấu tạo đặc biệt: đảo
vị ngữ lên đầu câu, nhấn mạnh hai từ láy gợi hình. Bà Tú phải “lặn lội” sớm
hôm, chạy vạy ngược xuôi “khi quãng vắng”. Công việc khiến bà Tú phải thức dậy
đi làm từ khi mọi người vẫn đang còn ngủ và trở về nhà khi mọi người đều đã sum
họp bên gia đình, khi bên ngoài đường đều là những “quãng vắng” có phần nguy
hiểm với một người phụ nữ. Câu thơ đầu sử dụng hình ảnh ẩn dụ quen thuộc của ca
dao Việt Nam là “con cò”. Trong ca dao, hình ảnh con cò thường tượng trưng cho
người lao động, đặc biệt là người phụ nữ lam lũ, nghèo khổ, bất hạnh. Cách sáng
tạo hình ảnh “con cò” thành “thân cò” để chỉ bà Tú vừa cho thấy sự lam lũ, vất
vả, cực nhọc đến tội nghiệp, đáng thương của bà Tú, vừa cho thấy tình thương mà
ông Tú dành cho bà. Chẳng những phải vất vả thức khuya dậy sớm mà bà Tú còn
phải chịu những khó khăn chồng chất trong công việc buôn bán. Khi chợ đã đông, đã
lắm kẻ bán người mua, bà không tránh khỏi phải chịu những điều tiếng kêu ca,
phàn nàn “eo sèo” của khách hàng. Cả hai câu thơ, với việc sử dụng phép đối,
phép đảo và những từ láy gợi hình cùng với hình ảnh ẩn dụ quen thuộc, nhà thơ
đã khắc họa những vất vả, khổ cực của bà Tú, từ đó gợi ra hình ảnh một người vợ
lam lũ, chịu thương chịu khó vì chồng con. Qua đó cũng cho thấy sự thấu hiểu,
tình yêu thương của ông Tú với người vợ tảo tần.
1.2. Nhân đạo thể hiện ở việc ca ngợi, trân
trọng vẻ đẹp bà Tú : Đảm đang, tháo vát, giàu đức hy sinh, tri ân vợ .
(
Phân tích câu 2, 5, 6 ; chú ý khai thác nghệ thuật :Cách nói dí dỏm,đối thành
ngữ, tăng tiến, âm điệu dằn vặt)
+ Câu hai cho thấy gánh nặng gia đình trên
vai bà Tú. Đặc biệt, cách nói về gánh nặng gia đình mà bà Tú phải đảm nhiệm
thật độc đáo : “năm con với một chồng”. Dường như, ông Tú đang tự đặt mình lên
bàn cân và thấy một mình ông “nặng” bằng năm đứa con. Bà Tú phải nuôi ông bằng
nuôi thêm năm đứa con nữa. Cách nói ấy gợi ra nụ cười mỉa mai chính mình của
ông Tú: hóa ra, mình cũng chỉ là một thứ con cần phải nuôi. Nhận ra mình là một
gánh nặng trên đôi vai gầy của vợ cho thấy ông Tú hết sức biết ơn người vợ tần
tảo của mình.
+ Hai câu
thơ 5,6 có đến hai thành ngữ để nói về
bà Tú. “Một duyên hai nợ” là thành ngữ cho thấy nỗi vất vả của bà: chỉ có một
cái “duyên” may mắn với ông Tú mà bà lại chịu đến “hai nợ”, hai gánh nặng là
chồng và con. Nhưng bà không hề kêu ca, phàn nàn, không than trời kêu đất mà
vui vẻ chấp nhận như đó là số phận của mình, “âu đành phận”. Nỗi vất vả và đức
hi sinh của bà Tú không chỉ có thế. Dù phải “năm nắng mười mưa”, đi trưa về tối
thì bà vẫn “dám quản công”, bà không kể công lao, không quản ngại gian khó. Bà
chịu đựng hi sinh tất cả để lo cho gia đình, bà không nghĩ gì cho riêng bản
thân mình. Hai câu luận này, bằng phép đối và vận dụng sáng tạo thành ngữ, nhà
thơ đã hoàn thành nốt bức chân dung về phẩm cách cao quý của bà Tú : lòng yêu
thương chồng con và đức hi sinh cao cả. Ở hai câu thơ này, giọng thơ chùng
xuống mang âm hưởng dằn vặt, vật vã, gợi ra một tiếng thở dài nặng nề, chua
chát của một ông chồng cảm thấy mình vô dụng, phải để vợ một mình gồng gánh
việc gia đình. Điều đó chứng tỏ tấm lòng yêu thương vợ rất mực của Tú Xương.
1.3. Giá trị nhân văn thể hiện ở sự tự trách
mình, lên án thói đời, bộc lộ tình yêu thương vợ da diết ; (Phân tích câu 7, 8 )
Nhà thơ sử dụng khẩu ngữ “cha mẹ” để chửi
“thói đời” làm bà Tú khổ. “Thói đời” ấy là cái “thói” phổ biến trong xã hội
phong kiến cũ: chồng là nhà nho thì chỉ biết ăn, học, lều chõng thi cử, còn vợ
lại một mình lo kinh tế gia đình, chèo chống giang sơn nhà chồng. Chửi thói đời
đen bạc chưa hả, ông quay sang chửi chính mình là “chồng hờ hững”, là ông chồng
vô tích sự, không làm gì được cho vợ đỡ khổ, lại còn “ăn bám” vợ. Có lẽ tự giận
mình quá nên ông Tú đã quá lời chửi mình là đồ “chồng hờ hững” chứ thực ra, một
người phát hiện ra, biết trân trọng và hết lời ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp
của vợ, còn tự nhận ra thiếu sót của mình mà tự lên án mình gay gắt như thế thì
cũng không phải đến nỗi là “hờ hững”. Là một nhà Nho với tính tự trọng cao và
đặc biệt là sống trong xã hội mang nặng tư tưởng trọng nam khinh nữ, vậy mà ông
vẫn tỏ ra rất kính trọng người vợ của mình, chẳng những thế còn tự nhận khuyết
điểm của mình một cách chân thành, tự chửi mình chứng tỏ ông Tú là con người có
nhân cách đáng trọng. hai câu thơ cuối bài với ngôn ngữ thơ giản dị, tự nhiên,
vận dụng khẩu ngữ đời thường, tác giả bộc lộ sự xót xa vì cảnh làm chồng mà để
vợ phải nuôi, trở thành gánh nặng cho vợ; đồng thời cũng thể hiện nhân cách cao
đẹp của ông Tú.
2.
Đánh giá:
- Đến với bài thơ “Thương vợ” của Trần Tế Xương nhìn với góc độ đạo lý, bà Tú đang
tuân theo bổn phận làm vợ nhưng nhìn ở góc độ tình cảm, ta thấy bà làm tất cả
vì chồng con mà không than thở, ở bà hiện lên vẻ đẹp truyền thống của người phụ
nữ Việt Nam. Đó là sự đảm đang, chịu thương, chịu khó và đức hi sinh âm thầm vì
chồng con.
- Từ đây ta càng cảm thông sâu sắc cho số phận người phụ nữ Việt Nam xưa, phải
chịu nhiều khổ cực, tủi nhục, hiu quạnh, tình duyên hẩm hiu, trắc trở… Cái gốc của nhà
thơ vẫn là tấm lòng. Nhà thơ viết vì cuộc
đời, vì con người, là nhà nhân đạo chủ
nghĩa.
- Ngày nay thân phận người phụ nữ đã
chiếm một vị trí quan trọng trong gia đình. Bởi lẽ cái xã hội “Trọng nam khinh
nữ” đã bị xóa bỏ mà thay vào đó là một xã hội “công bằng, bình đẳng, nam nữ
bình quyền”. Nhưng không vì thế mà người phụ nữ Việt Nam làm mất đi vẻ thuần
phong mỹ tục vốn có của mình. Và vẫn giữ được phẩm chất, vẻ đẹp truyền thống
của người phụ nữ Viêt Nam, đảm đang tháo vác.
- Khẳng định giá trị
nhân văn trong bài thơ đó là niềm cảm thông, sẻ chia của Tú Xương dành cho vợ,
ông không chỉ thương vợ mà còn ơn vợ, không chỉ lên án thói đời mà còn tự trách
mình.
-
Sức sống của tác phẩm
- Suy nghĩ của bản thân
GV Nguyễn Thị Thúy Hải - NCM Ngữ Văn
All comments [ 0 ]
Your comments